Thứ Năm, 31 tháng 1, 2008

Đất

Huỳnh Kim


Ta nghèo bởi ta chưa hiểu đất
Đất sinh sôi ta sống chai lì
Đất bao dung ta thiếu lòng tha thứ
Đất mở đường ta lầm lũi bước đi


Thứ Tư, 30 tháng 1, 2008

Thứ Ba, 29 tháng 1, 2008

“Chuyện tình” cây lúa nước



Huỳnh Kim

Năm 2007, gạo Việt Nam xuất khẩu được hơn 1,4 tỉ USD, chủ yếu từ các giống lúa cao sản mà bà con nông dân hay gọi là “thần nông”. Chuyện về “cái nền” của các giống thần nông này là cả một câu chuyện tình nghĩa. Nhân ngày Xuân, mời bạn đọc Mblog nhín chút thì giờ, nghe câu chuyện ấy…

Năm 1992, tốt nghiệp thạc sĩ ở Thái Lan, năm 2005 lấy tiến sĩ ở Nhật với đề tài về vai trò của nông dân trong phát triển nông nghiệp và nông thôn ở ĐBSCL, tới giờ, Nguyễn Ngọc Đệ vẫn đam mê câu chuyện dân dã ấy, câu chuyện mà tôi xin lấy tựa cho bài báo này: “Chuyện tình cây lúa nước”. Một ngày cuối năm 2007, anh Đệ tâm sự:

- Tâm huyết của tôi là muốn cho con cháu đời sau biết được gốc tích của mình. Tôi rất mong có kinh phí để làm bài bản hơn việc sưu tầm các nông cụ truyền thống của ĐBSCL. Thí dụ như mời những nông dân cố cựu thao tác để ghi lại hình ảnh, câu chuyên; cả những ngày lễ hội làm mùa của nông dân. Để sau này còn có thể hình dung ra được cái lịch sử trồng lúa nước ở ĐBSCL.

Tết này, anh Đệ bước sang tuổi 52, sau hơn ba chục năm gắn bó với công việc nghiên cứu cây lúa. Anh đang là Giám đốc Trung tâm Tư vấn phát triển của Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL thuộc trường Đại học Cần Thơ. Trung tâm này đang lo việc tư vấn trong các lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn, từ chuyện qui hoạch thủy lợi, sản xuất… cho tới sản phẩm, thương hiệu. Dù vậy, nhóm của anh vẫn đeo đuổi công việc thầm lặng mà anh tâm huyết.


TS Đệ & cái “sà ngom” bắt cá của nông dân Khmer


* Gìn giữ lúa mùa

Gốc con nhà nông, từ 10 tuổi anh Đệ đã đi ruộng tiếp gia đình ở Mù U, Ba Càng, Vĩnh Long. Tới năm 1979, tốt nghiệp kỹ sư trồng trọt Đại học Cần Thơ ra trường làm nghiên cứu cây lúa cho tới giờ, anh nhận thấy diện tích lúa mùa ngày càng thu hẹp. Anh kể: “Ý tưởng đầu tiên của nhóm nghiên cứu, hồi đó do thầy Võ Tòng Xuân dẫn đầu, là nếu không sưu tập, giữ gìn thì lúa mùa sẽ mất vì lúa thần nông với các kỹ thuật mới, sẽ thay thế dần. Vậy là lập ra nhóm bảo quản, sưu tầm giống lúa mùa. Hiện nay đã có trên 1.600 giống lúa cổ truyền của ĐBSCL đã được sưu tập và Đại học Cần Thơ đã lập ra ngân hàng giống lúa”.

Có những giống vẫn tồn tại như Tài nguyên, Nàng thơm chợ Đào, đặc biệt là giống Nanh chồn rất nổi tiếng trước đây, gạo thơm, hạt nhỏ, dài, hơi qướt, giống như cái nanh con chồn. Giống này trước có gốc ở Bà Rịa, Vũng Tàu nhưng dần dần được trồng ở vùng ven biển Tiền Giang, Long An. Những giống khác hiện nay không sản xuất nữa do dài ngày quá như Ba kiếu, Ba trúc, Gẫy xe hoặc mấy giống lúa nổi. Còn giống Huyết rồng thì hiện nay Long An đang có kế hoạch khôi phục.

Mỗi vùng có một giống lúa thích nghi. Các vùng trước đây ở ĐBSCL đều canh tác nhờ nước trời; không có hệ thống thủy lợi, người ta phải dựa vào các chế độ nước, đặc biệt là mưa và lũ, để xuống giống cho phù hợp. Chọn giống cũng phải tùy thuộc theo chế độ nước để làm.

Xưa, những vùng từ An Giang, Đồng Tháp cho tới Thốt Nốt trở lên biên giới, nông dân dùng các giống lúa nổi. Giống này độc đáo là có khả năng chịu nước. Tới mùa nước nổi, nước lũ tràn về, với những giống lúa mùa thường, mặc dù cao cây nhưng không có khả năng vươn lóng để dưỡng nước thì bị nhận chìm; còn ở vùng lúa nổi, các giống này chịu được nước ngập trên ba thước. Trong điều kiện như vậy, nước lên tới đâu nó vươn lóng ngoi lên tới đó. Nhóm lúa nổi này có nhiều giống đặc thù như Nàng tây, Tàu binh, Huyết rồng, Lá rừng…

Các giống này do bà con chọn lọc trong tự nhiên, giống nào tồn tại thì giữ lại trồng. Lúc mới giải phóng, diện tích lúa nổi có trên 400.000 héc ta, năng suất từ 1-1,5 tấn/héc ta. Chất lượng gạo thì tùy giống. Như giống Nàng tây có hai dạng, gạo đỏ và gạo trắng; gạo trắng dân ưa hơn nên trồng nhiều. Còn trong nghiên cứu, giống lúa nào có hạt gạo đỏ thì chịu phèn, chịu mặn, chịu hạn tốt hơn.

Riêng giống Nàng thơm chợ Đào, tới giờ có thể coi là giống lúa mùa cho gạo thơm ngon nhất nước. Độc đáo là nó phải được trồng ở vùng Mỹ Lệ của huyện Cần Đước, tỉnh Long An; trồng chỗ khác chất lượng gạo không được như vậy. Gạo thơm, dẻo, có cái phần đục trong hạt gạo mà bà con hay gọi là hạt lựu.

Nàng thơm chợ Đào Nanh chồn, trong điều kiện canh tác bây giờ, có thể đạt được 4-5 tấn/héc ta. Đặc biệt nó chỉ trổ trong khoảng thời gian ngày ngắn, vào khoảng từ tháng 10 đến tháng 12 dương lịch. Ngày ngắn nhất trong năm là ngày 22-12; giống lúa mùa nào sau 22-12 chưa trổ bông thì không thể nào trổ nữa. Cho nên lúa mùa không thể trồng trái vụ được.

Với lúa mùa vùng trũng như ở Vị Thanh, Cần Thơ, Vĩnh Long trước đây, người ta làm lúa cấy hai lần. Cấy hai lần vì ở vùng trũng cần có cây mạ to để chịu đựng được nước. Người ta phải gieo mạ trên liếp, độ một tháng sau (khoảng tháng Sáu, tháng Bảy) thì nhổ cấy xuống những chỗ tương đối trũng bắt đầu có nước vào. Độ hai tháng sau, người ta bứng lúa lên bằng cái dao (vì cây mạ to) rồi cấy lại khi nước đã cao. Đặc điểm của lúa cấy hai lần là cây lúa cao, chịu được mực nước từ năm tấc đến một thước. Ở vùng ven biển như Sóc Trăng, Bạc Liêu, Gò Công, do đất cao hơn, người ta chỉ cấy một lần.

Lúa mùa có nhiều đặc tính quí cần được bảo tồn. Nó rất hữu ích cho công tác lai tạo các giống lúa mới với những nguồn gien mới như chống chịu phèn, mặn, ngập nước; một số giống cũng chống chịu được một số bệnh phổ biến trên lúa. Có rất nhiều giống có phẩm chất gạo ngon, đặc thù mà các giống lúa thần nông bây giờ không thể so bằng, như dẻo và thơm.

Lâu nay các chuyên gia về cây lúa của Đại học Cần Thơ vẫn lo giữ gìn và khai thác các đặc tính quí của các giống lúa mùa này để phục vụ cho công tác lai tạo các giống lúa mới.

Các anh còn sưu tập cả giống lúa ma hoặc lúa trời. Đây là dạng lúa hoang mà có nơi còn gọi là lúa rung. Xưa nó mọc hoang ở các vùng đầm lầy; nay thì ven các bờ kinh rạch ở ĐBSCL hầu như chỗ nào cũng có, trừ vùng ngập mặn. Lúa hoang ở ĐBSCL sống trong mùa nước và khi tới mùa khô, nhờ cái thân ngầm còn ở trong đất, mưa xuống lại tiếp tục mọc lên. Nó trổ dài vào cuối tháng Chín đầu tháng Mười; khi hạt vừa chuyển sang màu vàng thì bắt đầu rụng. Lúa ma cũng giỏi chống chịu hạn, phèn và bệnh.

Ngày xưa tới mùa, người ta thường bơi xuồng vào đám lúa này. Một người bơi, một người cầm hai cây sào máng trên hai cái cột như cột chèo để đập từ ngoài đập vô, gom cho lúa rụng xuống xuồng. Một ngày cũng có thể kiếm được một hai giạ lúa, gạo ăn rất ngon.

Hiện nay nhóm của anh Đệ cũng đang sử dụng lúa ma làm gien cha mẹ để lai tạo ra những giống mới chống chịu được sự khắt nghiệt của thiên nhiên.


* Sưu tầm nông cụ

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Đệ cho biết, ngày xưa, cùng với việc chọn giống cho phù hợp với điều kiện canh tác thì những kỹ thuật canh tác cũng khác nhau ở từng vùng. Canh tác lúa nổi khác với canh tác lúa mùa cấy hai lần, lúa mùa cấy một lần. Đi kèm những kỹ thuật đó có những nông cụ khác nhau. Bảo tồn được giống rồi thì phải tìm cách bảo tồn được các nông cụ này. Anh Đệ nói: “Nếu không, 10 năm nữa nó không còn xuất hiện trên đời này thì con cháu mình cũng không biết ông bà tổ tiên hồi đó làm ruộng ra làm sao”.

Tâm huyết như vậy nhưng do không có kinh phí và cũng không có chương trình riêng, từ hơn mười năm nay, các anh cứ kết hợp đi công tác ở các địa phương để sưu tập. Khi sưu tập luôn ghi rõ nguồn gốc, lý lịch từng nông cụ.


TS Đệ & cái bừa


Hiện nay, trong gian nhà vốn là cái ga-ra xe hơi cũ của Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, đã có hơn 120 nông cụ được sưu tập. “Chúng tôi muốn làm như một bảo tàng nông cụ sản xuất lúa của ĐBSCL, mỗi nông cụ đều có một câu chuyện riêng”, anh Đệ nói. Và thành thạo như một nông dân, anh vừa thao tác vừa giảng giải cho tôi xem vài nông cụ.

Như thu hoạch lúa, bây giờ làm lúa thần nông người ta dùng cái liềm để cắt. Nhưng trước đây làm lúa mùa, cây lúa dài, nhất là ở vùng lúa cấy một lần, cấy hai lần, lúa ngã rạp khi chín, thì phải có cái vòng gặt kéo lúa lên trước khi cắt. Cái vòng gặt của người Kinh khác cái vòng gặt của người Khmer. Cái nọc cấy cũng khác nhau tùy theo độ sâu mực nước, có cái dài hai tấc hoặc năm, sáu tấc. Nọc cấy chỉ có ở những vùng cấy hai lần và một số nơi cấy một lần. Anh Đệ kể: “Tôi nhớ hồi nhỏ, khi tôi nghiêng người cắm cái nọc đâm lỗ dưới đất để nhét cây mạ xuống, vì tay mình còn ngắn nên nước ngập tới lỗ tai”.

Đập lúa cũng có nhiều kiểu đập khác nhau. Trước đây ở vùng lúa nổi mỗi hộ làm tới 30-50 công nên cắt lúa xong người ta bó lại hoặc dùng cái cộ chất lúa lên cho trâu kéo về sân. Người ta phải chuẩn bị cái sân đất được nện cho bằng mặt rồi dùng cứt trâu quậy với nước trát như mình trát xi măng bây giờ để tránh kẻ nứt. Chất lúa lên thành đống rồi cho trâu hoặc bò đi đạp vòng vòng. Khi hạt lúa rụng ra hết người ta lại dùng cái mỏ sãy làm bằng cây mù u để dích rơm ra khỏi đống lúa, sau đó mới giê lúa.

Cách ra hạt nữa là đập bồ tại ruộng. Trong bồ có cái thang làm bằng tre già để đập bó lúa. Để giữ bó lúa, người ta có một dụng cụ đặc biệt là cái nịch gồm có hai khúc cây mù u nối với nhau bằng một sợi dây làm bằng yếm dừa. Cái đáy bồ thường đóng bằng gỗ mù u. Vách bồ thì đan bằng tre phết cứt trâu để trám lỗ cho lúa không rớt ra ngoài; vách bồ có thể cao hơn hai thước. Đập đầy bồ rồi xúc lúa bằng thúng ra phơi hoặc giê.

Lại có cái bàn nhổ mạ. Mạ lúa mùa rất cao, thường được gieo xuống ruộng có nước. Khi nhổ thì nhổ bằng tay rồi đập vào chân để rửa bùn ở gốc mạ, xong dùng cái bàn nhổ mạ để đặt lúa lên. Bàn nhổ mạ làm bằng tre, cao từ nửa thước đến ngang ngực, có một cái chân nhọn cắm xuống đất hoặc có bốn chân để như cái bàn.

Chỉ vào cái trục, anh Đệ kể: “Có lần cách nay hơn ba năm, đi công tác khuyến nông ở huyện Càng Long, Trà Vinh, tôi gặp một cái trục người ta bỏ bên một chuồng bò. Tôi hỏi ông chủ nhà sao anh hổng xài nữa, ổng nói bây giờ xài máy rồi, nuôi bò chỉ để lấy thịt lấy phân chớ không cày bừa nữa. Tôi mới hỏi mua để đưa về trường, ổng rất mừng khi biết mục đích của mình rồi cho luôn”. Anh nói tiếp: “Cái trục này có từ cả trăm năm nay rồi, từ hồi mình canh tác lúa mùa chuyển từ đất phát cấy, nhất là ở những vùng trũng quanh năm ngập nước, đất không khô không cày được, khi nước về người ta chỉ lấy cái phảng phát cỏ xong rồi cào cỏ ra, rồi phải trục đất để đất không cứng”.

Riêng cái dao bứng lúa anh mới sưu tập thì hiện nay ở vùng ven của U Minh Thượng dân còn cấy lúa hai lần nên hầu như nhà nào cũng có dao bứng lúa.

Hay như năm 1994, đi Châu Thành, Trà Vinh, anh Đệ sưu tập được cái vòng gặt của người Khmer. Ông nông dân Khmer thách: “Thầy gặt được tôi cho thầy cái vòng gặt này”. Anh Đệ gặt ngon lành, ông nông dân nói: “Tui hổng ngờ thầy ở Đại học Cần Thơ mà cũng biết gặt như nông dân”.

Công cụ làm đất cầm tay ở đây còn có xuổng, leng, cuốc tai tượng…. Công cụ làm đất do trâu bò làm có bừa, trục, cày… Anh Đệ giải thích: “Tựu trung có hai loại cày ở ĐBSCL. Thứ nhất là cày đỏi; cái lưỡi giống hình cái mỏ con cá trê, cái cày này đặc biệt là để phá lâm, phá đất cứng. Còn cày bình thường trên đất nhẹ thì gọi là cày chét, cái lưỡi bằng để cắt đất lật qua”.

Các đoàn khách nước ngoài tới đây làm việc hay đi du lịch, họ thích nhất là đi xem ngân hàng giống lúa và cái “kho” nông cụ này. Anh Đệ nói:

- Ngoài chuyện bảo tồn, chúng tôi còn nhắm tới chuyện dạy cho sinh viên. Chúng tôi đã đào tạo được hai khóa ngành phát triển nông thôn, cả đại học và cao học, cho gần 200 sinh viên. Có những sinh viên chưa hề biết có những nông cụ truyền thống như vậy.

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Đệ kết thúc chuyện sưu tầm nông cụ của mình bằng một câu chuyện khác, cũng với cái giọng kề cà giản dị của một ông nông dân Nam bộ:

- Từ nhỏ tôi đi học một buổi, còn một buổi đi ruộng. Ba tôi làm được 20 công lúa mùa. Tới năm 1968, chính quyền trước họ phát động làm lúa thần nông, làm những điểm trình diễn giống IR-8 ở Vĩnh Long. Thấy giống thần nông ngắn ngày, năng suất cao, ba tôi muốn trồng thử vì trong vùng đó ai cũng làm lúa mùa cả. Làm lúa thần nông thì chỉ làm vào đầu mùa mưa khi mà mình chưa cấy lúa mùa. Thu hoạch xong hè thu thì ba tôi dành ra năm công đất làm lúa thần nông. Mình không kiểm soát được nước, chủ yếu cũng chỉ nhờ trời mưa, vậy mà năm đó lúa cũng trúng khoảng bốn tấn ngoài một héc ta. Lúc lúa chín sắp thu hoạch thì chim nó bu lại vì chung quanh hổng chỗ nào còn lúa mùa cả. Rồi thì nước lên, còn chừng hai tấc thì đụng bông lúa. Lúc đó ba tôi phải cất cái chòi lợp bằng rơm, sàn tre, cao hơn nước ruộng. Ba tôi cặm mớ cây xung quanh ruộng lúa chín rồi treo thêm mấy cái thùng, mấy cái lon rồi chuyền dây vô trong cái chòi này. Khi chim tới thì tôi kéo dây, vừa lắc vừa la. Rồi kèm theo cái nạn dàn thun để bắn đuổi chim…


_

Bài giống bài này, đã đăng trên giai phẩm Xuân Mậu Tý 2008 của Thời báo Kinh tế Sài Gòn.

Ẩm thực Nam bộ, đau đáu hương vị cội nguồn

Vũ Thống Nhất

Món ăn, xét bề ngoài, chỉ là cái đích của sự thỏa mãn vật dục. Nhưng đi sâu, ta vô cùng ngạc nhiên thấy nó biểu hiện trình độ văn hóa vật chất thì rất ít, nhưng biểu hiện trình độ văn hóa tinh thần của dân tộc thì rất nhiều” (Đại văn hào Balzac). Món ăn của người Việt đặc sắc, nổi tiếng đến nỗi ông Phi líp Kốt lơ, cha đẻ của Ma két ting hiện đại khuyên là nên lấy “ẩm thực” làm đột phá khẩu trong chiến dịch truyền bá thương hiệu Việt trên toàn thế giới. Ẩm thực dân gian, cách thức ăn uống của từng vùng, từng làng xóm được bắt rễ sâu xa từ truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc của địa phương. Và là một nội dung quan trọng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa, phong vị dân tộc, phong vị quê hương, tác động rất lớn vào tâm tư tình cảm, vào cách ứng xử của mỗi con người.


Món ăn Nam Bộ đặc sắc ở chỗ nó được tạo ra, mang sắc thái riêng, hương vị ngọt ngào riêng bởi hơi đất miệt vườn mênh mông, vị ngọt sông rạch ào ạt dâng tràn mùa lũ, khí trời lồng lộng gió biển Tây Nam, cái uy nghi thâm u của lớp lớp rừng già đồi núi nơi đây. Đó chính là “nguyên liệu” đầu tiên, chỉ có cho ẩm thực vùng châu thổ này, nơi đã trở thành “đất lành chim đậu”, mưa thuận gió hòa, ngày càng trù phú, phồn thịnh: “Ruộng đồng mặc sức chim bay/ Biển hồ lai láng mặc bầy cá đua”. Và vì vậy không thể có “gạo Chợ Đào” thứ hai, món lẩu mắm giữa “Hà Thành hoa lệ” do chính tay người An Giang nấu cũng không dễ qua được “hàng chính gốc”…

Mê Kông lại là con sông giàu cá tôm đứng hàng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau sông Amazon của Nam Mỹ. Vùng hạ lưu sông Mê Kông thuộc Việt Nam có hơn 1.200 loài thuỷ sản, trong đó hơn 60 loài có giá trị kinh tế, tập trung ở hai họ cá Chép (Cyprinidae) và cá Tra (Pangaciidae), sản lượng ước tính có đến 2 triệu tấn/năm. “Xóm trên giăng lưới /xóm dưới bủa câu”. Trong thực tế, khu vực này đóng góp đến 85% tổng sản lượng thuỷ sản nội địa khai thác được của cả nước. Cho đến hiện nay, dù có phần thua sút so với trước đây, năng lực cung ứng cá nước ngọt của vùng châu thổ vẫn là “số zách”, khó nơi nào bì kịp.


Có người nhận xét rằng, ẩm thực Nam bộ như một cô gái thôn quê, không cần trang điểm vẫn đẹp. Anh Bảy, một nhà báo lâu năm kể khi về Sóc Trăng, nhà văn hóa Sơn Nam đã nói về món cá rô kho tiêu, “món ruột” của đồng bằng Nam bộ như thế này: cá rô là chúa của cá đồng, nước mắm là tinh túy của đại dương, rắc chút tiêu là lấy hương của đồi núi… Chỉ một món ăn dân dã mà gom cả hương hoa đất trời, thể hiện văn hóa của một xứ sở. Trên mảnh đất tận cùng phương Nam này, con người đã tận dụng tự nhiên, thỏa chí sáng tạo ra những món ăn độc đáo thể hiện cái cốt cách, dấu ấn của những người một thời đi mở cõi - đó là bản sắc của khẩn hoang, phóng khoáng, không cầu kỳ câu nệ.


Ẩm thực Nam bộ (và Việt Nam) ẩn chứa sức mạnh văn hóa nặng lắm. Nó không chỉ liên kết không gian, thời gian; truyền thống, hiện đại mà cả tâm linh, tư tưởng con người nữa. Trong khuôn khổ chương trình “Mê Kông – Dòng sông kết nối các nền văn hóa” tổ chức tại Washington vừa qua, nghệ nhân Nguyễn Thị Xiềm, 67 tuổi (Trà Nóc - Bình Thủy) đã biểu diễn đổ bánh xèo, gói bánh tét, bánh ít trần... được công chúng, nhất là Việt kiều xuýt xoa tán thưởng. Nhiều người mời bà về nhà riêng, tặng quà… Cái ngon chưa nói nhưng việc bà tự tay chọn gạo xay bột, kiếm dây cột bánh đã đánh thức cả miền ký ức xa xăm của người Việt xa xứ, làm sống dậy tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Chả nói đâu xa, mới gần đây, ngồi trong quán cà phê giữa đất Cần Thơ, trời mưa lất phất, một đồng nghiệp đã bần thần “ăn bánh tét bà Mười tự nhiên thấy nhớ ngoại quá. Ngày xưa ngoại em hay nấu như vậy”. Chiếc bánh bình thường nhẹ hều mà sao có lúc oằn nặng suy tư, tình cảm đến vậy! Thưởng thức miếng bánh mà vụt òa trong tâm thức họ là hình ảnh dòng sông bến nước thủa ấu thơ, là mẹ già lam lũ cặm cụi bên nồi bánh tét khi xưa, là khói rơm đốt đồng thơm thơm bay tỏa chiều tà, là hương vị quê hương có cây cầu khỉ có buổi tát đìa, như chùm khế ngọt, như cánh cò bay… “Tình yêu đất nước là sự thương nhớ, thèm thuồng món ăn mà cha mẹ cho ăn lúc mình nhỏ tuổi". Theo thời gian những món ăn mộc mạc, đơn sơ đó; những hương vị đậm đà đó vẫn in chặt, quyện vào tâm thức dù họ có rời xa đến đâu. Và thật lạ, càng xa lại càng đau đáu đến rã rời nỗi nhớ quê. Ra vậy, dưới lớp áo sặc sỡ của văn hóa ẩm thực là cái cốt lõi đạo lý tình người của dân tộc Việt chúng ta.

Nhà văn Vũ Bằng đã dẫn trong lời nói đầu tập sách Miếng ngon Hà Nội như vầy “Tại kinh đô Trương Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn trở về quê cũ”. Bản thân ông cũng cồn cào da diết, quay quắt trong nỗi nhớ Hà Nội hàng mấy chục năm trời mà mượn văn chương gởi tình cho nơi xa, mà tạo nên thiên tùy bút tuyệt phẩm dài hơn hai trăm trang. Câu chuyện ăn uống được thăng hoa thành văn hóa ẩm thực cả một vùng miền.


Chị bạn lại nói ăn giống như thở, khi thiếu mới thấy không chịu đựng nổi. Chị đã mua một trái chuối nướng ở Bangkok giá 8000 đồng Việt Nam vì quá nhớ thức ăn Việt. Chuối nướng là món ăn của trẻ con đã thành một niềm thương nỗi nhớ giằng xé tâm can khi đi xa nhà vậy đó! Lại nhớ, mấy năm trước có kẻ hoài hương bồn chồn lang thang lê gót đi tìm tiếng lanh canh của chiếc cóng tre múc nước chấm bên mẹt bún chả đầu Ô Quan Chưởng, mùi thơm gánh xôi xéo đậu xanh rưới mỡ hành phi vàng ươm đầu phố Nguyễn Du khi hương hoa sữa còn đậm đặc quanh hồ Thiền Quang… Mỗi món ăn là một hương vị, một niềm vui, một gợi nhớ và tất cả những thứ đó hội lại thành một quá khứ thân thương. Món ăn làm khổ người đi xa nhiều hơn bạn từng nghĩ.

“Phong sương mấy độ qua đường phố/ Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê” (Vô đề-Sơn Nam). Cái thời chúng ta ăn để no đã qua rồi và thế giới càng hiện đại người ta lại càng muốn gần với thiên nhiên hơn và coi đó chính là chất lượng của cuộc sống hôm nay. Chương trình "Ẩm thực khẩn hoang Nam bộ" tạo ra cả một trào lưu ẩm thực hướng về cội nguồn chốn quê, thủa xa xưa khẩn hoang giữa thời hội nhập. Những món ăn mộc mạc, “hương đồng cỏ nội” như cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống, chuột đồng rô ti, lươn hấp trái bầu, ếch xào lăn, cá rô kho tộ, cá bống dừa kho tiêu, canh chua cá lóc, hủ tiếu Mỹ Tho, tôm lụi Bạc Liêu, nấm tràm Phú Quốc... vẫn lên ngôi, trở thành đặc sản; vẫn khuấy động thực khách ngay chốn phồn hoa đô hội. Và họ còn chọn cách thưởng thức nó theo kiểu dân dã nhất mà mọi người có thể. Kể sơ cách nướng (chưa động gì tới chất liệu nghe) cũng muốn kêu… “ba xị” rồi (nướng than hồng, nướng trui, nướng mọi, nướng lu, nướng rơm, nướng đất sét, nướng ống tre…). Món lẩu mắm Châu Đốc, “kỳ thú phương Nam” sành điệu phải đủ hai mươi mấy thứ rau đồng nội như cù nèo, tai tượng, càng cua, bông so đũa, bông điên điển... Món “Cá cơm đệ nhất nem” mà nghe nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hữu Hiệp (An Giang) kể lại dứt khoát thực khách phải “đùng đùng nổi giận” đi lùng bằng được: cá cơm rửa sạch vảy ngâm nước muối cho đến khi thịt cá tét làm hai thì vớt ra, gỡ bỏ xương, ngâm trong nước dừa tươi. Lại vớt ra cho ráo, đổ thịt cá lược qua vải xô, vắt khô, quết nhuyễn với tỏi nướng, ướp đủ gia vị (muối, đường, mỡ, tiêu, nước củ riềng, thính…). Nắn thành viên, gói vòng trong bằng lá chùm ruột non, rồi lá vông nem, ngoài cùng mới quấn lá chuối, cột lại theo hình chữ thập… Khi cần cầu kỳ, “ăn cho đáng mới ăn” thì ẩm thực Nam bộ cũng đâu thiếu món khiến thực khách nghe qua đã “lên ruột”, bắt thèm. Như tự nhiên vậy, như tri ân người mở cõi, ẩm thực Nam bộ vẫn luôn chứa đựng cả một thế giới sản vật chan hòa chất liệu, màu sắc, vẫn mang trong mình hơi thở của vườn rộng sông dài.


“Thú quê thuần hức bén mùi” (Truyện Kiều), cụ Nguyễn Du đã chỉ ra cái giá trị nguồn cội của ẩm thực. Nó thấm vào máu thịt ta từ lúc nào không hay, khi xa mới cồn cào lan tỏa, mới dằng dặc nỗi nhớ; bàng bạc phiêu diêu trong tâm tưởng, khó mà phân chia, cắt lìa được lắm. Và các mẹ, các chị nhiều khi vô tình không nhận ra hôm nay đang lụi cụi bên bếp chính là lúc họ đang dệt nỗi nhớ khôn nguôi về gia đình, về cội nguồn cho người thân họ ngày mai.

_______
Ảnh: Trương Công Khả, Cẩm Nhung

tuyetdieu.com

Phù Sa Lộc

Anh bạn tôi là nhà báo, quen sử dụng máy đánh chữ từ khi còn trẻ. Khi tòa soạn bước đầu kế hoạch “vi tính hóa”, anh chẳng màng quan tâm, bởi “lưng lửng quan” nên anh đâu phải có bài theo định mức hằng tháng mà ban biên tập đã đề ra cho toàn bộ phóng viên. Tết năm đó, tổng biên tập yêu cầu anh viết báo xuân. Thì viết. Nhưng khi nhận lại bài viết, anh thấy nơi góc trái đầu trang, gần bên tít bài, có dòng chữ: “Nhanh chóng xóa mù vi tính” của tổng biên tập. Tự ái, anh dành ra một buổi học và thực tập cách nạp liệu. Dễ ợt. Phấn khởi, anh học cách save bài cùng một vài yêu cầu bức thiết mà anh cần biết để giải quyết những mắc mứu gặp phải khi biên tập bài cộng tác viên trên máy. Dần dà anh cũng học được khá nhiều điều bổ ích từ máy tính, do mấy phóng viên đệ tử chỉ dẫn.

Các bạn khuyên anh nên học một khóa vi tính nhưng anh chẳng quan tâm vì nghĩ mình chẳng sử dụng máy tính nhiều học làm chi cho mất công, nhất là cái đầu của mình như cái băng nhão, dung nạp những điều học được chẳng là bao. Phí công, hoài của!

Rồi cũng đến ngày anh về hưu. Lương hưu chẳng là bao, lại thiếu mất món tiền phụ cấp trách nhiệm khá lớn, anh phải viết bài gởi báo để kiếm thêm thu nhập. Vậy là anh mua cái USB, rồi lẩm nhẩm, thực hành các thao tác save bài từ máy vô USB và ngược lại, mất mấy buổi trời mới nhớ. Công việc đòi hỏi anh phải vô Internet mới có điều kiện tốt gửi bài cho các báo ở Thành phố Hồ Chí Minh, ở Hà Nội, bởi gửi bài bằng trang in hiếm khi được các họ sử dụng. Vì, bài viết nếu sử dụng được phải nạp liệu lại, sửa morasse lu bu, mất thời giờ rất nhiều. Vậy là phải học sử dụng Internet. Trầy trật mãi rồi anh cũng được mấy đứa con kềm cặp thành công. Gửi bài qua email quá tiện lợi. Dù đến tòa soạn “báo nhà” chẳng bao xa nhưng với phương tiện này anh khỏi mất công mặc quần áo, phóng xe đi. Bài báo và ảnh như bóng với hình. Đó là yêu cầu số một của các báo. Không có ảnh, bài hay cỡ nào cũng “vứt”! Nên anh phải sử dụng máy ảnh kỹ thuật số. Cái này dễ, chỉ cần đưa máy ảnh lên ngang mắt cân đối bố cục là bấm. Tuy nhiên để lưu ảnh vào máy tính anh phải nhờ con. Nhiều bữa không có đứa con nào ở nhà để nhờ lưu ảnh vào máy tính để gửi đi ngay, anh bực bội vô cùng. Không lẽ thúc thủ quy hàng? Anh nghĩ chắc nó cũng giống như save bài từ USB vô máy tính. Vậy là anh loay hoay làm thử. “Rùa” dẫn đường, anh thành công mỹ mãn.

Viết báo đòi hỏi phải có nhiều tư liệu tham khảo bổ sung nhằm nâng cao giá trị bài viết. Các bạn nói “gõ” Google một cái là có nhóc. Anh thử làm, quá đạt yêu cầu. Hàng bao nhiêu núi tư liệu giúp anh giải quyết nhu cầu bức xúc, điều mà trước đây anh phải ngồi hàng giờ, thậm chí có khi cả mấy ngày kiếm cho ra quyển sách, trang sách có tư liệu đó. Mà sách nhà anh thì đâu phải ít, lại “được” sắp xếp vô cùng lộn xộn bởi vợ và các con anh sau khi đọc xong! Như vậy không mất hứng viết cái mới lạ! Anh khoan khoái cười mỉm chi, từ nay ta đã có chiếc đũa thần, chỉ cần gõ một cái là nó “hóa” thành phép lạ ngay. Vậy là hàng bao nhiêu tạp chí, sách, báo tư liệu của anh trong phút chốc đã được cân ký lô cho đỡ chật nhà, bụi bặm, mối xông, vài ba tháng lại phải đem phơi nắng một lần nữa chứ. Tuyệt vời! Tuyệt vời hơn là vô Google, gõ bút danh anh một cái, hàng bao nhiêu bài báo của anh đều được sắp hàng tới mấy trang. Cha, cả thế giới đọc, sưu tra bài viết của mình. Hãnh diện thật. Khoái nhất là mấy bài viết của anh đã “mất tích” từ lâu, nằm chình ình trên website của một báo nào đó, chỉ cần “nhấn nhấn” mấy phát, a lê hấp nó đã chễm chệ vô kho lưu trữ của máy tính nhà anh rồi. Trên net, hầu như không thiếu tờ nào nên anh đọc “chùa” thoải mái. Tin tức cập nhật liền tù tì, nóng hổi, báo giấy làm sao bì. Hồi anh bị mất điện thoại, tính mua cái mới, con anh mở máy tính, truy cập net, ê hề hàng bao nhiêu chủng loại, từ giá bèo tới giá cứng, lại còn ghi rõ các chức năng của nó. Lạ một điều, truy cập tư liệu qua Google hoặc Yahoo! nếu gõ trật một chi tiết, hoặc sai chính tả, như có một con ma, nó nhắc nhở anh ngay để làm lại tốt hơn!...

Có Internet, đã hơn nữa, là anh còn liên lạc được với bất kỳ người bạn nào, ở bất cứ địa phương nào, kể cả nước ngoài, miễn anh chị ta có Internet. Cứ thăm hỏi nhau thoải mái, chẳng tốn là bao so với điện thoại. Hình ảnh chụp chung trong chuyến đi chơi đâu đó, về mail qua mail lại, lưu trong máy lâu lâu mở coi, còn được phóng lớn theo yêu cầu nữa chứ, sướng nào bằng. Sướng nữa là vừa viết bài vừa nghe nhạc từ máy tính. Ái chà, có người còn nói gắn cái webcam gì đó khi nói chuyện với nhau sẽ thấy được mặt nhau. Cái mới “độc”!

Với số vốn sử dụng máy tính và Internet như vậy, đi đâu anh cũng quảng báo sự tuyệt vời của nó với mấy ông bạn già. Nhưng kỳ cục, chẳng thấy lão nào hưởng ứng. Ai cũng ừ hử cho qua tang lề. Bực thật. Ngẫm nghĩ, anh mới biết, té ra cái đầu của họ đã “nhão” nên rất ngán sử dụng công cụ hữu ích hiện đại này. Giống như anh hồi trước kia thôi, không nhớ được nhiều động tác ra lệnh máy tính nên rất khổ sở mỗi khi ngồi vào máy. Rồi mọi bức bối cũng trở nên dễ chịu, khi anh bạn già của anh phát hiện một phương pháp học nhanh và dễ nhớ. Đó là học “tắt”, học với mấy anh làng nhàng, bấp bỏm vài ba “chiêu” sử dụng máy như mình, cách học “bình dân”. Còn làm theo cách dạy “hàn lâm” của mấy tay siêu máy tính thì dứt khoát sẽ khiến ta “nản lòng chiến sĩ”, “buông súng” là cái chắc vì phải đi qua nhiều công đoạn lu bu! Nhờ vậy mà anh học được khá nhiều điều để sử dụng máy tính được nhiều hơn. Mà máy tính thì còn có hàng hà sa số công năng khác mà anh chưa nắm hết, vừa tốt vừa xấu, đủ cả. Nó là thứ công cụ được anh tạm gọi là tuyetdieu.com.

Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2008

LÀNG NGHỀ VÀO XUÂN

* Phù Sa Lộc

Vợ chồng anh Hiển từ Australia đưa con gái và con rể lần đầu tiên về Việt Nam ăn Tết. Ghé nhà tôi, anh chị trang trọng mở bọc giấy khoe. Cứ tưởng vật gì, té ra là chiếc muỗng cà phê được chế tác bằng gỗ dừa. Cầm chiếc muỗng trong tay, anh Hiển bảo rằng loại hàng mỹ nghệ này được người Úc ưa chuộng rồi nhờ tôi đưa đi tham quan cái làng nghề đó.

Chiếc thuyền du lịch vượt sông Tiền. Sóng nước mênh mông. Cồn Phụng, cửa ngõ vào Bến Tre, cây xanh và những hàng dừa rủ bóng ven bờ hiện ra trước mắt. Tàu cặp bến. Đi dài theo con đường đất nhỏ, chẳng mấy chốc, chúng tôi đã nghe tiếng máy âm âm vọng tới. Đó là “hơi thở” của ngôi làng gồm 10 cơ sở sản xuất sản phẩm mỹ nghệ bằng gỗ dừa. Anh Hữu Lộc, hướng dẫn viên Trung tâm Điều hành du lịch (Công ty cổ phần Du lịch Bến Tre) cho biết, làng nghề ở đây hoạt động suốt các ngày trong tuần, phục vụ khách tham quan. Trong gian nhà mái tôn bộn bề những miếng gỗ dừa, những vụn dăm bào, mấy người thợ đang gò mình chăm chút từng công đoạn sản xuất. Mũi đục bén ngót trên tay chàng trai trẻ ăn ngọt vào sớ gỗ một cách cẩn trọng tạo thành mặt lõm chiếc vá bới cơm. Xong phần “làm thô”, chiếc vá nhanh chóng được chuyển qua tay người thợ làm bóng. Chỉ vài thao tác, vân gỗ dừa dần hiện lên và những vân ấy càng đẹp hơn sau khi được một người thợ khác đánh bóng bằng sáp.













Michel, con rể anh Hiển rất ngạc nhiên, luôn tắc lưỡi trầm trồ vì không ngờ cái thân dừa tưởng chừng vô dụng lại được chế biến thành một sản phẩm đẹp. Cậu ta rất thích thú khi đứng trước tủ kính trưng bày các sản phẩm. Cứ hết cầm con khỉ bịt tai, vớ con khỉ bịt mắt, rồi lấy con khỉ bụm miệng, Michel tủm tỉm cười hoài. Anh Hiển nói với con rể bằng tiếng Việt: “Mấy con khỉ rắn mắt”. Hai cha con cười vang, khoái trá. Anna Hương, con gái anh Hiển, đứng cạnh chồng, cứ hích cùi chỏ vào hông chàng trai Úc như khuyến khích cậu ta mua cho mình mấy chiếc kẹp tóc bằng gỗ dừa. Cô bảo, về bển chắc chắn “không đụng hàng”. Anh Hiển thì nhanh tay lựa và bảo cô gái bán hàng gói cho mình bộ ấm trà xinh xắn như món đồ chơi. Riêng chị Hiển đang lựa các muỗng, đũa, vá với vẻ mãn nguyện khi chọn những vật dụng nhà bếp “độc chiêu”, hãnh diện những khi có khách. Rời cơ sở, vợ chồng, con cái anh Hiển mang lỉnh kỉnh những gói hàng mà vẫn còn cứ tiếc chưa mua được đủ đầy các loại sản phẩm. Riêng Anna Hương thì cứ chắc lưỡi ân hận vì quên chưa mua được chiếc giỏ đan bằng cọng lá dừa mà cô cứ trầm trồ đẹp ơi là đẹp!

***

Chiếc xe 12 chỗ ngồi chạy êm ru trên con đường tráng nhựa phẳng phiu. Hai bên đường xanh ngút một màu xanh no ấm của hàng bao nhiêu loại cây ăn trái. Vốn được sinh ra trên đất nước kanguroo, nên Anna Hương chốc chốc lại kêu lên: “Ba ơi, đẹp quá kìa!”. Theo tay chỉ của cô, là những vườn cây xanh nổi màu đỏ quyến rũ của trái chôm chôm. Bỗng cô hét toáng lên: “Ôi, trái gì vậy, ba?”. Anh chị Hiển bật cười: “Sầu riêng, con à!”. Những trái cây đầy gai nhọn được bày bán dài theo hai bên đường. Theo yêu cầu của Anna Hương chúng tôi ghé một nhà vườn. Trên những liếp nền đất sạch sẽ, sầu riêng được trồng ngay hàng thẳng lối, cành nào cành nấy lủng lẳng những trái. Nhìn thấy một trái treo tòn ten trên cành bởi sợi dây ni-lông, người chủ vườn nhanh nhẹn leo lên. Một nhát dao cắt dây, xuống đất, một mũi dao tách vỏ, mấy múi sầu riêng có màu vàng bắt mắt ngoan ngoãn nằm yên trong lớp vỏ mỏng dánh hiện ra. Mỗi người cầm một múi mềm mụp, dầy cộm, không dính tay, như được phủ lớp ni-lông, cho vào miệng. Mùi sầu riêng thơm lựng thoảng vào mũi. Miếng sầu riêng tan trên mặt lưỡi thấm sâu đốc giọng cái mùi đặc trưng. Tuyệt vời!



Anh Hữu Lộc giới thiệu, ngoài việc nhà vườn cho sầu riêng ra trái quanh năm, Cái Mơn (Chợ Lách) còn có nhiều vườn bòn bon, măng cụt, xoài cát Hòa Lộc trái to vị ngọt thanh, bưởi da xanh ngọt giòn… Được hình thành bởi ba dãy cù lao nên ưu thế số một của Bến Tre là vườn. Vườn ở xứ này được lập từ thời Tự Đức. Cái Mơn còn có nghề chiết, tháp cây ăn trái nổi tiếng. Ngày nay, người Cái Mơn chuyên tâm sản xuất cây giống để lái nơi khác đến “ăn hàng” đưa đi khắp nơi tiêu thụ.











Cái Mơn còn có vườn kiểng. Từ xưa, kiểng được xem là sáng tạo của miệt vườn. “Người ta nuôi và uốn chúng với những đường nét, quan niệm thẩm mỹ khá độc đáo, khác lối uốn kiểng của người Trung Hoa, của miền Trung hoặc miền Bắc. Kiểng được người dân nơi đây uốn theo kiểu xuy phong, mẫu tử với những tàn tiêu biểu cho tam tùng tứ đức hoặc tam cang ngũ thường, trên chót là ba nhánh nhỏ tiêu biểu cho nhật, nguyệt, tinh. Nhánh kiểng phải “hô, ứng”, nhánh này nghinh thiên thì nhánh kia phải yểm địa…”. (*). Ngoài ra, Cái Mơn còn có nghề uốn kiểng thú. Đi trong những khu vườn yên ả, nhìn bàn tay tài hoa của người thợ uốn, bẻ, sữa, cắt từng nhánh cây, Michel không thể ngờ trên đời có một thú chơi với những con thú “lông xanh” như: nai, cá hóa rồng, ngựa, đặc biệt là con giáp của năm âm lịch, loại hàng được khách Singapore, Hồng Công ưa thích.









Trở về Cần Thơ, anh Hiển cứ tiếc nuối không có điều kiện tham quan hết các làng nghề ở Bến Tre, nơi còn có nhiều cơ sở sản xuất kẹo dừa thơm vị trái cây; bánh phồng sữa có thể ăn ngay không cần nướng có vị ngọt, béo, thơm mùi sầu riêng, lá dứa; và “bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc” nổi tiếng cả nước… Phải nói rằng, làng nghề ở Đồng bằng sông Cửu Long phân bổ đều khắp nông thôn, thu hút hàng chục ngàn lao động, lưu giữ bản sắc văn hóa của cha ông. An Giang có dệt thổ cẩm của người Chăm ở Phủm Xoài (Châu Phong, Tân Châu), của người Khmer ở Sray Sakoth (Văn Giáo, Tịnh Biên), làng cá bè ở Châu Đốc. Phú Quốc (Kiên Giang) với nghề khai thác và chế biến nước mắm cá cơm có hương vị thơm ngon đặc biệt, đến đỗi từ điển La Rousse của Pháp phải đưa từ nuoc-mam vào. Vĩnh Châu (Sóc Trăng) có nghề dệt chiếu gia truyền ở Cà Săng. Gò Đen (Long An) nổi tiếng hàng trăm năm nay với rượu nếp lứt, đặc biệt là nếp trắng cho rượu ngọt đậm, thơm lừng, nước trong, sủi tăm, không có màng bám thành ly. Trà Vinh thì được nhiều người biết đến với nghề làm bánh tráng ở Lương Hòa (Châu Thành) nằm cạnh danh thắng ao Bà Om. Đặc biệt là những nghề theo con nước lớn. Đó là làng đóng ghe xuồng ở Ngã Bảy (Thị xã Tân Hiệp, Hậu Giang) và An Bình (quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ), chuyên đóng xuồng tam bản phục vụ dân chài lưới, đi câu, vận chuyển lúa gạo, thủy sản, trái cây… TP Cần Thơ có xóm lưới Thơm Rơm, làng lọp tép Thới Long (Ô Môn), lò luộc tép Thạnh Quới (Thốt Nốt) hoạt động nhộn nhịp mỗi năm từ tháng 5 đến tháng 9 âm lịch…

Với cảm quan của người nước ngoài, Michel nói một cách khách quan: đa dạng và phong phú, là ưu thế của Đồng bằng sông Cửu Long có thể hấp dẫn khách du lịch. Các làng nghề cần phải được sắp xếp một cách khoa học, nhà xưởng phải được xây dựng theo truyền thống, khang trang, sạch đẹp. Sản phẩm tạo ra phải ngày càng khéo léo, tinh xảo, có giá trị sử dụng trong đời sống, chứ không đơn thuần là vật trang trí. Thiết kế, thay đổi kiểu dáng mẫu mã cần phải được quan tâm, giải quyết tốt đầu ra… Có như thế, diện mạo của các làng nghề của ĐBSCL sẽ được thay đổi, vừa giữ được bản sắc độc đáo không nước nào có vừa mang tính hiện đại, hấp dẫn du khách và phát triển bền vững hơn.









Qua nhận xét của Michel, tôi chợt nhận ra rằng lâu nay có một tiềm năng du lịch chưa được chú ý lắm, dù đã có một vài nơi khai thác. Nhưng rõ ràng nếu lập các tua du lịch làng nghề một cách nguyên xi thì chưa được, cần phải có kế hoạch dài hơi và liên kết cả vùng. Khi đó, làng nghề Đồng bằng sông Cửu Long mới thực sự vào xuân.

-----------
(*) Sơn Nam, “Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa & Văn minh miệt vườn”, Nhà xuất bản Trẻ tái bản, 2004, tr. 327.
--------
- Sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ dừa.
- Kiểng thú.
- Sầu riêng Cái Mơn.

___________

Ảnh: Cẩm Nhung

Thứ Năm, 24 tháng 1, 2008

"Sướng rên mé đìu hiu"

Trong chuyến đi công tác tại Phú Quốc, khi ghé trại bảo tồn chó Cội Nguồn, nhà báo Huỳnh Kim đã được đón tiếp nồng hậu. Tình cảm thắm thiết của chủ nhà đã làm Huỳnh Kim kêu lên: “Trời đất! giờ tui mới biết như thế nào là “sướng rên mé đìu hiu







Mblog

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2008

GSTS Võ Tòng Xuân: “Cần có một cuộc đổi mới thứ hai”

Huỳnh Kim

Năm 2006, kết quả khám sức khỏe cho 11 vị trong đoàn đại biểu tỉnh An Giang đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, thật bất ngờ, Giáo sư Tiến sĩ Võ Tòng Xuân, khi ấy 66 tuổi, là người cao tuổi nhất đoàn lại có sức khỏe tốt nhất. Do vậy, khi hay tin Giáo sư Võ Tòng Xuân vừa bàn giao chức Hiệu trưởng trường Đại học An Giang để nghỉ hưu, nhiều người muốn biết, hiện nay nhà khoa học danh tiếng này đang làm gì vậy? Chúng tôi đã hỏi chuyện ông; và cũng như bao lần trước, tôi đều mở đầu câu chuyện bằng hai tiếng “Thưa Thầy”…



Không chỉ nhà báo Huỳnh Kim, nhiều người lớn tuổi khác vẫn kính cẩn "Thưa Thầy..."


* Thưa Thầy, Thầy vẫn đang sống và làm việc ở chỗ cũ, trong căn nhà công vụ của trường Đại học An Giang. Dường như công việc của Thầy hiện nay vẫn… bộn bề?

GSTS Võ Tòng Xuân: Hiện nay, tuy tôi thôi làm hiệu trưởng Đại học An Giang, bớt được trách nhiệm quản lý, nhưng các nhiệm vụ khác trong nước và ngoài nước tôi vẫn tiếp tục thực hiện. Tôi vẫn đang sống tại căn nhà công vụ của Đại học An Giang vì muốn tiếp tục giúp các cán bộ trẻ và sinh viên ở đây về mặt chuyên môn trong giai đoạn xây dựng cơ sở đại học mới mà tôi đã tham gia thiết kế. Và tôi vẫn thường xuyên thực hiện các trách nhiệm khác qua phương tiện thư điện tử. Ngoài ra, khi đến lịch của chương trình thì tôi sẽ đi họp quốc tế hoặc trong nước theo yêu cầu.

* Vậy một ngày sống và làm việc của Thầy hiện nay ra sao?


Ở tuổi lục tuần, thầy Võ Tòng Xuân vẫn ăn uống khỏe mạnh

GSTS Võ Tòng Xuân: Một ngày sống của tôi lúc nào cũng bận rộn, nhưng phải bảo đảm một sự điều độ cơ bản. Ăn, uống đầy đủ; mỗi sáng sớm, tôi uống nước hai trái chanh tươi trước khi ăn sáng và không hút thuốc, nhậu nhẹt thường ngày. Thể dục buổi sáng. Đọc báo điện tử Việt Nam, Anh, Mỹ. Đọc mục lục các tạp chí khoa học đến trong hộp thư điện tử và nếu cần xem chi tiết thì truy cập tiếp cả bài báo cáo. Đọc và trả lời các thư điện tử. Tiếp xúc với cán bộ trẻ và sinh viên khi họ đến tìm. Theo dõi các dự án nghiên cứu của trường và của tỉnh An Giang. Lên lớp khi đến lịch. Tiếp khách trong và ngoài nước khi có lịch họ đến. Đi họp trong hoặc ngoài tỉnh khi có lịch…

* Ở tuổi này, nhớ lại những điều tâm huyết đã đóng góp vào công cuộc đổi mới của đất nước, nhất là trong nông thôn nông nghiệp hơn ba chục năm qua, Thầy muốn nói gì?

GSTS Võ Tòng Xuân: Rõ ràng công cuộc đổi mới đã giúp đưa đất nước ta tiến lên phía trước trong mặt trận phát triển kinh tế xã hội. “Đổi mới” không tốn nhiều ngân sách nhà nước đầu tư nhưng thực chất chỉ cần sự thay đổi chính sách của Đảng và Nhà nước. Cũng con người này, cũng đất nước núi sông này mà từ một nước sản xuất quá kém, phải ăn đong, mặc thiếu, cái gì cũng hiếm có, đã chuyển sang một quốc gia sản xuất quá nhiều lương thực, thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, chủ yếu là nhờ Đảng và Nhà nước đồng ý thay đổi chính sách nông nghiệp không tốn kém gì bao nhiêu cả. Tôi gọi đó là cuộc đổi mới thứ nhất.

Thành tích đó của nhân dân Việt Nam đã bắt đầu từ những đề xuất mạnh dạn của những người dám chịu trách nhiệm trước Đảng, đã lôi cuốn bà con nông dân chọn cách làm có hiệu quả hơn cách làm cũ. Và tôi rất hãnh diện đã đứng trong hàng ngũ những người dám chịu trách nhiệm ấy. Tôi và các bạn đồng nghiệp và hàng trăm sinh viên đã đưa giống lúa mới, kỹ thuật trồng lúa tiên tiến, giúp bà con nông dân sản xuất theo kiểu khoán hộ tại ấp Lung Đen, xã Kế An, huyện Kế Sách, tỉnh Hậu Giang năm 1979, nay thuộc tỉnh Sóc Trăng. Những kỹ thuật nông nghiệp khác đồng thời với sự phát triển các hệ thống tưới tiêu do ngành thủy lợi thực hiện, áp dụng nhiều hệ thống canh tác thích nghi từng kiểu sinh thái khác nhau đã tiếp tục được thầy trò chúng tôi giới thiệu cho nông thôn. Qua đó chúng tôi đã đào tạo được hàng trăm kỹ sư nông nghiệp, góp phần rất đáng kể cho công cuộc phát triển tiềm năng của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Những đóng góp khá ấn tượng khác có thể kể như loạt chương trình truyền hình “Khoa học kỹ thuật nông nghiệp” mà nguyên Thủ tướng Văn Kiệt thường kể lại: “các đồng chí lãnh đạo các tỉnh, huyện mê hơn xem cải lương”. Hoặc cuộc mở đầu đối thoại với Chính phủ trên diễn đàn Quốc hội thay vì chỉ “giơ tay và vỗ tay” từ khi tôi tham gia lần đầu tiên năm 1981 với câu chuyện Nhà nước đã lãng phí vì phá các rừng tràm tại các vùng đất phèn nặng để thành lập các nông trường lúa Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên - Hà Tiên, U Minh… và tôi đề nghị Chính phủ khôi phục lại các vùng sinh thái này. Sau đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đạo ngành nông nghiệp và lâm nghiệp xem xét lại vấn đề này. Hoặc một lần khác cũng trên diễn đàn Quốc hội tôi đã chứng minh Dự án Luật Thuế nông nghiệp của Chính phủ trình vào tháng 6-1991 sẽ làm cho nông dân nghèo thêm, và Thủ tướng Đỗ Mười lúc ấy đã xin rút lại Dự án, chờ nghiên cứu tiếp. Và hai năm sau, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp hợp lý hợp tình hơn.

* Thầy gọi đó là cuộc đổi mới thứ nhất. Như vậy, theo Thầy, nước nhà đang cần có thêm một cuộc đổi mới thứ hai để tiến kịp thiên hạ?

GSTS Võ Tòng Xuân: Cuộc đổi mới thứ hai rất cần thiết lúc này là phải cải tiến cơ bản và toàn diện cho giáo dục Việt Nam. Đây là vấn đề mà Đại hội Đảng lần IX đã nêu ra và Đại hội Đảng lần X đã tiếp tục kêu gọi, nhưng chúng ta mới chỉ thay đổi một cách vá víu chớ chưa cơ bản và toàn diện. Sản phẩm giáo dục của nước ta còn nhiều hụt hẫng so với các nước tiên tiến. Các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đánh giá rằng hệ thống giáo dục Việt Nam chưa phải là nơi tạo động lực tối hảo cho sự nghiên cứu và phát triển đất nước và chưa làm được nơi ươm mầm cho các tài năng xuất chúng của quốc gia.

Đổi mới giáo dục sẽ phải bắt đầu từ bậc phổ thông, lần lên đến bậc đại học, trong đó sự đổi mới phương pháp đào tạo tại đại học sư phạm đóng vai trò then chốt. Nhưng rất tiếc là Nhà nước chưa thấy sự cần thiết đó. Và như thế chúng ta sẽ càng làm chậm đi tiến trình đổi mới. Hệ thống đào tạo của Việt Nam hiện nay, từ chương trình đào tạo quá nặng nề - có quá nhiều môn học lý thuyết, nhiều môn học không quan trọng cho ngành chuyên môn, gấp đôi thời gian lên lớp so với sinh viên các nước khác, đến cách dạy chủ yếu vẫn là đọc – chép, vì dạy theo kiểu mới như “lấy người học làm trung tâm” sẽ bị cháy giáo án, cho nên không phát huy được tính sáng tạo, suy nghĩ độc lập của người học. Trong khi đó, nhất là đối với những sinh viên xuất sắc, nhu cầu học cấp bách những kỹ năng cao cấp ngày càng tăng, nhưng bị hệ thống giáo dục kìm hãm, không phát huy được. Mọi sinh viên phải chờ nhau cùng đi lên chầm chậm, người muốn đi nhanh không có cách gì để đi trước được. Trong khi đó, hệ thống giáo dục ở các nước chung quanh Việt Nam đều đã chuyển từ lâu.

* Thầy có thể cho một thí dụ về cách đào tạo của các nước mà sinh viên không phải “chờ nhau cùng đi lên chầm chậm” như vậy?

GSTS Võ Tòng Xuân: Tôi xin lấy môt thí dụ thực tế để chứng minh điều đó. Cháu Trần Thanh Tâm, một nữ sinh xuất sắc của tỉnh An Giang, đã được học bổng của Chính phủ Singapore cho sang Singapore học lớp 10-12 theo hệ thống giáo dục quốc tế, đã đạt điểm A và A+ đối với tất cả các môn học. Tốt nghiệp trung học Singapore giỏi như vậy, cháu xin được học bổng của Đại học Cornell (Mỹ). Sang đấy, cháu học chỉ trong 3 năm (thay vì 4 năm) đã xong chương trình BSc về Toán học chuyên về “Operations analysis” tốt nghiệp hạng Summa cum laude, giải thưởng xuất sắc nhất toàn trường Mỹ. Đồng thời cháu được trường Cornell cho học bổng để tiếp tục chương trình MSc Toán học. Và chỉ trong 18 tháng sau cháu đã lấy xong bằng Master. Trong khi đang học Master, cháu Tâm nộp đơn xin việc làm, thì được 4 công ty dịch vụ tài chính của Mỹ nhận. Cuối cùng cháu Tâm chọn làm với Công ty Oliver Wyman Group (Financial Services) chi nhánh tại Singapore, lương khởi điểm 85.000 USD/năm, chưa kể tiền thưởng.

Tôi chắc chắn là, nếu cháu Tâm học trung học phổ thông ở Việt Nam, rồi ráng thi tuyển sinh vào một đại học nào đó, nếu đậu vào học thì cũng phải chờ 8 học kỳ trong 4 năm mới ra trường. Rồi phải chờ một thời gian sau mới nộp đơn xin học cao học, tốn ít nhất 3 năm (mặc dù chính thức chỉ qui định 2 năm) với tất cả các môn học chính trị, đọc một số sách chuyên ngành toán, rồi làm luận văn tốt nghiệp, chờ ra bảo vệ trước Hội đồng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ký quyết định. Khi bảo vệ thành công, ra trường rồi không biết cháu Tâm sẽ được công ty nào mướn? Chắc chắn sẽ không có công ty Việt Nam nào biết đến cái ngành “Operations analysis” mà mướn người, ngay cả các công ty bảo hiểm của Việt Nam cũng chưa chắc cần chuyên viên ngành ấy.

Rõ ràng là chúng ta phải có một cuộc đổi mới thứ hai mới mong nhanh chóng đào tạo nhân tài theo kịp các nước tiên tiến.

* Riêng với ĐBSCL, Thầy thấy thế giới nhìn nhận vùng này ra sao? Và theo Thầy, hiện nay ĐBSCL đang đứng ở mức nào so với các vùng khác trong nước?

GSTS Võ Tòng Xuân: ĐBSCL là vùng sản xuất nông nghiệp và thủy sản quan trọng nhất Việt Nam, với diện tích và dân số tương đương nước Hà Lan ở châu Âu. Nhưng Hà Lan xuất khẩu 41,6 tỉ USD trong khi ĐBSCL chưa đạt 3 tỉ USD. Chúng ta chưa phát huy hết tiềm năng của ĐBSCL vì chưa đầu tư đúng mức cho cầu đường nông thôn, giáo dục và y tế.

Có thể nói, so với bảy vùng sinh thái trong nước, về giao thông, ĐBSCL đứng hạng thứ 6-7, giáo dục hạng 6-7, y tế hạng 4-5; sản lượng lúa thì đứng hạng 1 nhưng giá trị còn thấp; thủy sản hạng 1; cây ăn trái cũng hạng 1 nhưng giá trị thấp.

* Vậy thì theo Thầy, làm sao để ĐBSCL kịp đi lên cùng cả nước?

GSTS Võ Tòng Xuân: Ngoài sự đầu tư của Nhà nước vào cấu trúc hạ tầng, chúng ta cần những nhà tư bản được đào tạo cơ bản với kiến thức và kỹ năng kinh doanh để phát huy tiềm năng của ĐBSCL.

Doanh nhân và nhà quản lý phải có học bài bản mới dám tính toán kinh doanh, biết mở thị trường, hoặc tìm thị trường cho những sản phẩm của ĐBSCL để từ đó quay ngược lại, tổ chức cho nông dân sản xuất nông sản nguyên liệu cho công ty mình chế biến một cách hiện đại theo đúng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã của khách hàng.

Doanh nghiệp của ĐBSCL không nên tranh mua, tranh bán theo kiểu thu gom, mà nên tổ chức kết hợp với hợp tác xã nông nghiệp hoặc cụm nông dân sản xuất nông sản nguyên liệu theo đúng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.

* Để làm được như vậy, chắc hẳn phải kỳ vọng vào lớp trẻ nhiều hơn. Thưa Thầy, nếu tâm sự ngắn nhất với một người tuổi trẻ, Thầy sẽ nói điều gì?

GSTS Võ Tòng Xuân: Phải có nghị lực và sáng kiến. Phải sống điều độ để bảo đảm sức khoẻ thật tốt. Mình sống đâu chỉ vì mình.

***

Có dịp đọc một số báo cáo cá nhân, tôi không thấy GSTS Võ Tòng Xuân nhắc đến hai danh hiệu cao quí mà Nhà nước đã phong tặng mình - Anh hùng Lao động và Nhà giáo Nhân dân. Mà ông thường nhớ tên hàng loạt “công việc đang làm”. Thí dụ như: Uỷ viên Hội đồng quốc gia giáo dục; Uỷ viên Hội đồng Khoa học công nghệ quốc gia; Chủ tịch Hội đồng Chức danh giáo sư liên ngành nông lâm học; Uỷ viên Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước; Uỷ viên Hội đồng Chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam. Với quốc tế thì: Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học kỹ thuật Australia; Ủy viên Hội đồng quản trị Viện Quản lý châu Á; Uỷ viên Hội đồng quản trị Tổ chức Dịch vụ quốc tế về tiếp thu và ứng dụng công nghệ sinh học nông nghiệp; Uỷ viên Hội đồng Cố vấn Diễn đàn Nghiên cứu các vấn đề phát triển châu Á; Uỷ viên Hội đồng quản trị Quỹ Rockefeller; Uỷ viên Hội đồng quản trị Trung tâm phát triển bền vững vùng lưu vực sông Mê kông; Uỷ viên Ban điều hành dự án Giám sát Hệ sinh thái sông Mê kông; Ủy viên HĐQT Trung tâm Phát triển Phân bón Thế giới; Chủ trì Chương trình “An toàn lương thực Tây Phi châu – Sierra Leone”…

Sáng ngày 24-12-2007, tôi gởi e-mail bản thảo bài báo này để Giáo sư Xuân xem lại trước khi chuyển về tòa soạn. Ngay trong đêm Giáng sinh ấy, ông đã hồi âm kèm mấy dòng ấm áp như thế này:

Kim mến,

Hồi chiều tôi đã bảo vệ thành công trước Hội đồng thẩm định của Bộ Giáo dục & đào tạo một dự án xin World Bank tài trợ cho Đại học An Giang. Có 4 trường mới mở khác cũng được vào bảo vệ. Kể như có một món quà Noel cho Đại học An Giang nhân dịp 8 năm thành lập (30-12-1999 ~ 2007).

Đêm nay là đêm Giáng sinh, tôi ngồi ở nhà khách Đại học Bách khoa Hà Nội để chỉnh sửa bài cho Kim. Có thêm vài tình tiết. Xong rồi. Gởi liền cho Kim đây.

Mong Kim có một đêm Giáng sinh êm ấm bên gia đình hạnh phúc.

Xuân

@@@@@@@@@

(Bài đăng báo Doanh Nhân Sài Gòn Xuân Mậu Tý 2008)

_________

GSTS Võ Tòng Xuân trong buổi chiêu đãi hải sản Phú Quốc của nhà hàng Vườn Táo tại văn phòng Metinfo.