Hiển thị các bài đăng có nhãn Chuyện ẩm thực. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chuyện ẩm thực. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2008

Có gì hay tại Liên hoan văn hóa ẩm thực Cần Thơ?

20 đơn vị có nghềcó tiếng tăm của đồng bằng sông Cửu Long cùng TP. HCM sẽ trình diễn trong 5 ngày tại khu ẩm thực Hoa Sứ (cạnh vòng xoay Công viên nước) trong khuôn khổ tuần lễ khai mạc năm du lịch quốc gia tại Cần Thơ.

Xin click vào brochure kèm theo đây
để biết chi tiết


click vào đây để có bản đồ chỉ dẫn
địa điểm của liên hoan.


Mblog

Thứ Hai, 4 tháng 2, 2008

Cái bánh ít ngày xưa

Lê Duy


Bánh ít hay bánh ích? Hồi nhỏ tôi đã thắc mắc như vậy. Nhưng lúc ấy bà tôi nội đưa cho cái bánh "ít", rồi gõ đầu bảo bánh này mà ít sao? Do phát âm nên người dân miền tây không phân biệt được là ích hay là ít. Mà có quan trọng gì đâu cơ chứ. Miễn sao có cái để mà thưởng Xuân, ăn Tết. Ít nhưng mà không ít.

Ngày xưa, chúng tôi mong Tết dữ lắm. Đầu tháng 12 âm lịch đã nôn nao rồi. Lúc đó thường là 28-29 tết. Thường khi ấy gió chướng về thổi phần phật, mấy cây mai chỉ toàn nụ xanh, ngã qua ngã lại. Không khí có cái gì đó khan khác, vui lắm, không giống ngày thường. Bọn trẻ chúng tôi càng nôn nao tợn. Khi bà nội tôi bảo rửa lá chuối gói bánh ít thì Tết đã đến gần. Những tàu lá chuối chọn cho lành nguyên, rọc ra và xé thành những miếng khoảng 30 cm vuông. Lá đem rửa cho sạch rồi, cắt tròn góc rồi phơi một tí nắng cho mềm lá. Mẹ tôi thì nấu đậu xanh cho nhừ rồi nêm nếm để nguội. Vắt đậu thành những viên nhân. Dừa rám-tức không quá già-đem nạo rồi xào với đường. Loại đường thẻ mà ngày nay ít khi thấy có bán trên thị trường. Dừa xào xong cũng vắt thành nhân. Công đoạn của bà tôi làm là chuẩn bị bột. Bột nếp xay ra từ mấy ngày trứơc, sau đó cho bột nuớc vào trong cái bao "bồng bột". Loại bao làm bằng vải dầy chỉ cho nuớc rỉ ra chứ bột thì còn lại. Sau một ngày đêm cục bột còn lại trong bao phân làm hai, nửa đem xắt phơi khô. Còn phân nửa để trắng như vậy để gói bánh dừa ngọt. Còn bột khô thì nhào nặn với đường nung chảy làm thành thứ bột ngà ngà như mật, thơm lừng mùi đường thẻ. Bột này ngọt dùng để gói nhân đậu xanh.

Tôi chỉ được sai vặt. Lúc thì rửa lá lúc thì nạo dừa, chụm lửa chứ chưa khi nào được mó tay vào việc gói bánh. Vì công việc này đòi hỏi phải có nghề. Nếu không, khi chín, bánh sẽ không đứng thẳng mà bò dài ra. Mẻ bánh hấp được chín đầu tiên bao giờ cũng là để xem bột có khô không, có nhiều nước không. Chúng tôi hay giành nhau mấy chiếc bánh đầu tiên này, nên khi bắt đầu gói bánh thì tích cực ngồi gần giúp bà, giúp mẹ; lúc thì chụm lửa, lúc thì lấy cái này cái kia. Chúng rất ngon vì cái bánh ít đầu tiên mình được nếm trước mọi người nên thích lắm. Ôi cái mùi thơm của đường, cái vị béo của dừa, của đậu. Tất cả kết tinh thành một phần cái mà ta gọi là quê hương

Mấy ngày Tết trôi qua, rổ bánh to đùng vơi dần. Bà tôi nói không nhờ bánh ít thì làm sao cho lũ trẻ chúng tôi có quà bánh ăn cho đủ trong mấy ngày xuân. Bây giờ, bà già rồi không còn đủ sức ngồi gói, mẹ tôi cũng vậy. Nhưng Tết cũng có bánh ít mà là bánh mua từ chợ về, đặt người gói để ăn Tết. Các con tôi cũng có bánh ít ăn Tết. Nhưng chúng đâu có biết được cái háo hức ngày xưa mà tôi từng tận hưởng mỗi khi cả nhà chuẩn bị gói bánh. Nó không chỉ là nổi nôn nao trẻ con mà còn là sự trào dâng của không khí Tết, của mái ấm gia đình, của quê hương. Sự bận rộn, bôn ba của cuộc sống làm ta mất đi quá nhiều những ký ức đẹp đẽ ngày xưa.

QUẾT BÁNH PHỒNG ĂN TẾT

Lê Duy

Giữa cái nắng hanh khô và gió phần phật của mùa giáp Tết, tiếng rao của bà bán bánh vang lên xé toạc cái yên ắng đến nao lòng. “Phồng đê..ê” . Mấy chữ “bánh phồng đây” nói còn chưa trọn tiếng mà mọi người trong con hẻm ai cũng biết đó là gì rồi.

Cái xề đầy ắp những cái bánh phồng đã nướng sẵn, đựng trong một cái túi nylon to đùng. Cái xề nằm lắc lư trên chiếc nón lá như che mát thêm cho người bán giữa buổi trưa oi ả. Không một lời đáp lại, tiếng rao nhỏ dần rồi mất hẳn ở đầu hẻm.
Tiếng rao đi rồi nhưng hình ảnh cái bánh phồng ngày xưa ập đến với đầy nhóc những ký ức. Thời đó cái ăn còn khó. Thời đó quà rong còn là xa xỉ, những miếng ngon, những thứ cầu kỳ đều để chờ Tết. Đưa ông Táo xong học sinh đều được nghỉ học. Những ngày chờ Tết rất là vui. Vui vì chờ chiếc áo mới mà mùng một mới được mặc, vui vì nồi bánh, nồi thịt sẽ được múc ra khi cúng rước ông bà. Những ngày giáp tết là dịp chúng tôi mang chút quà về quê thăm họ hàng. Là dịp mang từ quê ra những thứ chỉ ở quê mới có, trong đó có bánh phồng.
Những ngày này về quê là chỉ đi hết nhà dì này, cậu nọ. Mọi người đều rãnh rang vì đã gặt hái hết rồi. Chỉ có mỗi một bận bịu là công việc quết bánh phồng. Cả xóm từ sáng sớm đã vang tiếng thùm thụp của chày cối. Cục nếp dẽo cứ bịn rịn níu kéo cái chày khiến cho người giã mím môi hết sức mới kéo nổi chày lên và giáng xuống lần nữa. Sự níu kéo cứ thùm thụp mãi như sự giằng co giữa ký ức và hiện tại, cho đến khi cục nếp đã được giã nhuyễn. Tôi hay đứng nhìn cách mà mọi người làm chí bánh phồng thành một tấm bánh tròn trịa. Những phần nếp nhỏ nằm trên lá chuối xanh, người ta lấy ống tre thoa mỡ lăn tráng thành bánh phồng tròn. Nhà nào cũng quết bánh, nhà nào cũng có bánh. Sân nhà ai cũng có những liếp tre phơi đầy bánh phồng. Vậy mà nhà này đem qua nhà kia tặng cho nhau từng chục bánh phồng nếp như là quá Tết. Trong nhà đầy nhóc bánh phồng nhưng dì Năm luôn miệng hỏi cậu Út mày có đem cho bánh chưa, như là một lễ nghỉ ngày Tết, thiếu thì không được.
Buổi tối, những ngọn gió bấc mặn chát mùi biển mang theo mùi thơm của nếp từ những đám cháy bập bùng, rãi rác khắp nơi trong xóm. Mọi người hay trải chiếu ngồi trước hàng ba với một ấm trà ủ trong bình bằng vỏ dừa và một mớ bánh phồng nướng từ rơm. Kẹp tấm bánh vào giữa hai miếng tre. Phải nhanh tay lật qua lật lại trên lữa bánh mới phồng đều và không bị khét. Độ phồng của bánh là thước đo tay nghề của người làm bánh và chiếc bánh nào nướng xong đâm cây tăm xỉa răng vào mà ngập lút thì đạt.
Giờ thì lâu rồi tôi không thấy cảnh quết bánh phồng, không còn chứng kiến những đêm nướng bánh trên rơm. Nhưng bánh phồng thì vẫn được mang đi bán. Bán cho những người không còn có thời gian với ký ức như tôi, có thể như bạn nữa. Tiếng rao bán bánh phồng đi mất rồi, chỉ còn lại một nỗi tiếc nuối vô hạn và một thứ lo lắng: liệu ngày nào đó người ta sẽ không còn làm bánh phồng? Tôi muốn có một chiếc bánh nướng rồi hay chưa nướng cũng được và một mớ rơm. Để tôi đốt lên ngọn lửa gìn giữ ngày xuân xưa.


Thứ Ba, 29 tháng 1, 2008

Ẩm thực Nam bộ, đau đáu hương vị cội nguồn

Vũ Thống Nhất

Món ăn, xét bề ngoài, chỉ là cái đích của sự thỏa mãn vật dục. Nhưng đi sâu, ta vô cùng ngạc nhiên thấy nó biểu hiện trình độ văn hóa vật chất thì rất ít, nhưng biểu hiện trình độ văn hóa tinh thần của dân tộc thì rất nhiều” (Đại văn hào Balzac). Món ăn của người Việt đặc sắc, nổi tiếng đến nỗi ông Phi líp Kốt lơ, cha đẻ của Ma két ting hiện đại khuyên là nên lấy “ẩm thực” làm đột phá khẩu trong chiến dịch truyền bá thương hiệu Việt trên toàn thế giới. Ẩm thực dân gian, cách thức ăn uống của từng vùng, từng làng xóm được bắt rễ sâu xa từ truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc của địa phương. Và là một nội dung quan trọng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa, phong vị dân tộc, phong vị quê hương, tác động rất lớn vào tâm tư tình cảm, vào cách ứng xử của mỗi con người.


Món ăn Nam Bộ đặc sắc ở chỗ nó được tạo ra, mang sắc thái riêng, hương vị ngọt ngào riêng bởi hơi đất miệt vườn mênh mông, vị ngọt sông rạch ào ạt dâng tràn mùa lũ, khí trời lồng lộng gió biển Tây Nam, cái uy nghi thâm u của lớp lớp rừng già đồi núi nơi đây. Đó chính là “nguyên liệu” đầu tiên, chỉ có cho ẩm thực vùng châu thổ này, nơi đã trở thành “đất lành chim đậu”, mưa thuận gió hòa, ngày càng trù phú, phồn thịnh: “Ruộng đồng mặc sức chim bay/ Biển hồ lai láng mặc bầy cá đua”. Và vì vậy không thể có “gạo Chợ Đào” thứ hai, món lẩu mắm giữa “Hà Thành hoa lệ” do chính tay người An Giang nấu cũng không dễ qua được “hàng chính gốc”…

Mê Kông lại là con sông giàu cá tôm đứng hàng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau sông Amazon của Nam Mỹ. Vùng hạ lưu sông Mê Kông thuộc Việt Nam có hơn 1.200 loài thuỷ sản, trong đó hơn 60 loài có giá trị kinh tế, tập trung ở hai họ cá Chép (Cyprinidae) và cá Tra (Pangaciidae), sản lượng ước tính có đến 2 triệu tấn/năm. “Xóm trên giăng lưới /xóm dưới bủa câu”. Trong thực tế, khu vực này đóng góp đến 85% tổng sản lượng thuỷ sản nội địa khai thác được của cả nước. Cho đến hiện nay, dù có phần thua sút so với trước đây, năng lực cung ứng cá nước ngọt của vùng châu thổ vẫn là “số zách”, khó nơi nào bì kịp.


Có người nhận xét rằng, ẩm thực Nam bộ như một cô gái thôn quê, không cần trang điểm vẫn đẹp. Anh Bảy, một nhà báo lâu năm kể khi về Sóc Trăng, nhà văn hóa Sơn Nam đã nói về món cá rô kho tiêu, “món ruột” của đồng bằng Nam bộ như thế này: cá rô là chúa của cá đồng, nước mắm là tinh túy của đại dương, rắc chút tiêu là lấy hương của đồi núi… Chỉ một món ăn dân dã mà gom cả hương hoa đất trời, thể hiện văn hóa của một xứ sở. Trên mảnh đất tận cùng phương Nam này, con người đã tận dụng tự nhiên, thỏa chí sáng tạo ra những món ăn độc đáo thể hiện cái cốt cách, dấu ấn của những người một thời đi mở cõi - đó là bản sắc của khẩn hoang, phóng khoáng, không cầu kỳ câu nệ.


Ẩm thực Nam bộ (và Việt Nam) ẩn chứa sức mạnh văn hóa nặng lắm. Nó không chỉ liên kết không gian, thời gian; truyền thống, hiện đại mà cả tâm linh, tư tưởng con người nữa. Trong khuôn khổ chương trình “Mê Kông – Dòng sông kết nối các nền văn hóa” tổ chức tại Washington vừa qua, nghệ nhân Nguyễn Thị Xiềm, 67 tuổi (Trà Nóc - Bình Thủy) đã biểu diễn đổ bánh xèo, gói bánh tét, bánh ít trần... được công chúng, nhất là Việt kiều xuýt xoa tán thưởng. Nhiều người mời bà về nhà riêng, tặng quà… Cái ngon chưa nói nhưng việc bà tự tay chọn gạo xay bột, kiếm dây cột bánh đã đánh thức cả miền ký ức xa xăm của người Việt xa xứ, làm sống dậy tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Chả nói đâu xa, mới gần đây, ngồi trong quán cà phê giữa đất Cần Thơ, trời mưa lất phất, một đồng nghiệp đã bần thần “ăn bánh tét bà Mười tự nhiên thấy nhớ ngoại quá. Ngày xưa ngoại em hay nấu như vậy”. Chiếc bánh bình thường nhẹ hều mà sao có lúc oằn nặng suy tư, tình cảm đến vậy! Thưởng thức miếng bánh mà vụt òa trong tâm thức họ là hình ảnh dòng sông bến nước thủa ấu thơ, là mẹ già lam lũ cặm cụi bên nồi bánh tét khi xưa, là khói rơm đốt đồng thơm thơm bay tỏa chiều tà, là hương vị quê hương có cây cầu khỉ có buổi tát đìa, như chùm khế ngọt, như cánh cò bay… “Tình yêu đất nước là sự thương nhớ, thèm thuồng món ăn mà cha mẹ cho ăn lúc mình nhỏ tuổi". Theo thời gian những món ăn mộc mạc, đơn sơ đó; những hương vị đậm đà đó vẫn in chặt, quyện vào tâm thức dù họ có rời xa đến đâu. Và thật lạ, càng xa lại càng đau đáu đến rã rời nỗi nhớ quê. Ra vậy, dưới lớp áo sặc sỡ của văn hóa ẩm thực là cái cốt lõi đạo lý tình người của dân tộc Việt chúng ta.

Nhà văn Vũ Bằng đã dẫn trong lời nói đầu tập sách Miếng ngon Hà Nội như vầy “Tại kinh đô Trương Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn trở về quê cũ”. Bản thân ông cũng cồn cào da diết, quay quắt trong nỗi nhớ Hà Nội hàng mấy chục năm trời mà mượn văn chương gởi tình cho nơi xa, mà tạo nên thiên tùy bút tuyệt phẩm dài hơn hai trăm trang. Câu chuyện ăn uống được thăng hoa thành văn hóa ẩm thực cả một vùng miền.


Chị bạn lại nói ăn giống như thở, khi thiếu mới thấy không chịu đựng nổi. Chị đã mua một trái chuối nướng ở Bangkok giá 8000 đồng Việt Nam vì quá nhớ thức ăn Việt. Chuối nướng là món ăn của trẻ con đã thành một niềm thương nỗi nhớ giằng xé tâm can khi đi xa nhà vậy đó! Lại nhớ, mấy năm trước có kẻ hoài hương bồn chồn lang thang lê gót đi tìm tiếng lanh canh của chiếc cóng tre múc nước chấm bên mẹt bún chả đầu Ô Quan Chưởng, mùi thơm gánh xôi xéo đậu xanh rưới mỡ hành phi vàng ươm đầu phố Nguyễn Du khi hương hoa sữa còn đậm đặc quanh hồ Thiền Quang… Mỗi món ăn là một hương vị, một niềm vui, một gợi nhớ và tất cả những thứ đó hội lại thành một quá khứ thân thương. Món ăn làm khổ người đi xa nhiều hơn bạn từng nghĩ.

“Phong sương mấy độ qua đường phố/ Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê” (Vô đề-Sơn Nam). Cái thời chúng ta ăn để no đã qua rồi và thế giới càng hiện đại người ta lại càng muốn gần với thiên nhiên hơn và coi đó chính là chất lượng của cuộc sống hôm nay. Chương trình "Ẩm thực khẩn hoang Nam bộ" tạo ra cả một trào lưu ẩm thực hướng về cội nguồn chốn quê, thủa xa xưa khẩn hoang giữa thời hội nhập. Những món ăn mộc mạc, “hương đồng cỏ nội” như cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống, chuột đồng rô ti, lươn hấp trái bầu, ếch xào lăn, cá rô kho tộ, cá bống dừa kho tiêu, canh chua cá lóc, hủ tiếu Mỹ Tho, tôm lụi Bạc Liêu, nấm tràm Phú Quốc... vẫn lên ngôi, trở thành đặc sản; vẫn khuấy động thực khách ngay chốn phồn hoa đô hội. Và họ còn chọn cách thưởng thức nó theo kiểu dân dã nhất mà mọi người có thể. Kể sơ cách nướng (chưa động gì tới chất liệu nghe) cũng muốn kêu… “ba xị” rồi (nướng than hồng, nướng trui, nướng mọi, nướng lu, nướng rơm, nướng đất sét, nướng ống tre…). Món lẩu mắm Châu Đốc, “kỳ thú phương Nam” sành điệu phải đủ hai mươi mấy thứ rau đồng nội như cù nèo, tai tượng, càng cua, bông so đũa, bông điên điển... Món “Cá cơm đệ nhất nem” mà nghe nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hữu Hiệp (An Giang) kể lại dứt khoát thực khách phải “đùng đùng nổi giận” đi lùng bằng được: cá cơm rửa sạch vảy ngâm nước muối cho đến khi thịt cá tét làm hai thì vớt ra, gỡ bỏ xương, ngâm trong nước dừa tươi. Lại vớt ra cho ráo, đổ thịt cá lược qua vải xô, vắt khô, quết nhuyễn với tỏi nướng, ướp đủ gia vị (muối, đường, mỡ, tiêu, nước củ riềng, thính…). Nắn thành viên, gói vòng trong bằng lá chùm ruột non, rồi lá vông nem, ngoài cùng mới quấn lá chuối, cột lại theo hình chữ thập… Khi cần cầu kỳ, “ăn cho đáng mới ăn” thì ẩm thực Nam bộ cũng đâu thiếu món khiến thực khách nghe qua đã “lên ruột”, bắt thèm. Như tự nhiên vậy, như tri ân người mở cõi, ẩm thực Nam bộ vẫn luôn chứa đựng cả một thế giới sản vật chan hòa chất liệu, màu sắc, vẫn mang trong mình hơi thở của vườn rộng sông dài.


“Thú quê thuần hức bén mùi” (Truyện Kiều), cụ Nguyễn Du đã chỉ ra cái giá trị nguồn cội của ẩm thực. Nó thấm vào máu thịt ta từ lúc nào không hay, khi xa mới cồn cào lan tỏa, mới dằng dặc nỗi nhớ; bàng bạc phiêu diêu trong tâm tưởng, khó mà phân chia, cắt lìa được lắm. Và các mẹ, các chị nhiều khi vô tình không nhận ra hôm nay đang lụi cụi bên bếp chính là lúc họ đang dệt nỗi nhớ khôn nguôi về gia đình, về cội nguồn cho người thân họ ngày mai.

_______
Ảnh: Trương Công Khả, Cẩm Nhung

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2008

Ký ức Chè

Ký ức Chè là một cuộc hội ngộ giữa 5 quán, người nấu chè đã thu
hút hàng trăm người đến Nhà hàng Hoàng
Cung
(Cần Thơ) thuộc Công ty LD Sài Gòn Cần Thơ đêm 19.01.2008. Cuộc
hội ngộ này còn có tên “Điểm đến cuối tuần”.
Đây là một hoạt động trong
chuỗi chương trình xây dựng mô hình hỗ trợ các cơ sở sản xuất nhỏ khắc họa dấu
ấn trong quá trình hội nhập do Văn phòng Cần Thơ của báo Sài Gòn Tiếp Thị tổ chức với sự tài trợ của
công ty Casuco. 14 món chè Cần Thơ và Huế trong không gian hoài niệm về tuổi học
trò được sự đồng cảm của tất cả mọi người tham dự. Được biết, Hoàng Cung sẽ duy
trì đêm hội ngộ vào thứ bảy và chủ nhật như một điểm đến cuối tuần.
Mấy hôm nay người Cần Thơ ngạc nhiên và thú vị với một event Chè tại nhà hàng Hoàng Cung khi:
"Bất chợt nhìn thấy một banner “ký ức Chè” ở góc phố

Bất chợt nhớ tiếng rao chè thời đi học

Khoảng khắc nhớ con đường đá đậu, quán chè bưởi Lasan (*)"







Hàng trăm người hảo ngọt đã đến









Có 14 loại chè được trưng bày ấn tượng, chủ yếu là chè miền nam: đá đậu, chè bưởi, chè khoai môn, chí-mà-phù, long tu, trôi nước, đậu trắng...





















Nhà văn Tôn Thất Lang cùng gia đình mang đến cuộc hội ngộ hương vị lạ của xứ Huế: chè đậu ngự và chè thịt heo quay (có chút sáng tạo khi bọc bột + thịt quay trong cùi trái nhãn nhục).







Không gian chợt trầm lắng khi tiếng saxo vang lên những bài Ngày xưa Hoàng Thị, Hạ Trắng...




Chương trình bắt đầu một cách hào hứng khi thầy Lê Văn Quới lừng danh với tài dạy Văn tại trường Châu Văn Liêm nói về “Con đường đá đậu” cùng những ký ức về chè của tuổi học trò.





Vọng cổ về… chè, một bài hát đã góp phần củng cố tên tuổi của nghệ sĩ Út Trà Ôn do ca sĩ Anh Đào của nhà hàng Song Quê lên trình diễn.




Nghệ nhân Hoài Thương (trước đây là một nhà giáo môn Văn có tiếng) kể những kỷ niệm thời đi học, những mối tình đến từ… quán chè.




Đại diện những quán chè có tiếng tại Cần Thơ lên nói về chuyện nghề bán chè cùng nghệ thuật nấu chè.








Ông Lê Thanh Quý, giám đốc Sài Gòn Cần Thơ, nhà đồng tổ chức bày tỏ mong muốn được góp phần tạo nên một Điểm hẹn cuối tuần cho Cần Thơ và đưa gánh chè từ các quán nhỏ vào các nhà hàng lớn.




Đến lúc ăn chè!
Một buffet chè lần đầu tiên tại Cần Thơ. Tây, ta, trẻ, già đều hào hứng. Đại diện các quán chè đi chỉ dẫn cách ăn các món chè.









Một du khách đi ngang tò mò nhìn không khí chộn rộn cũng được mời vào ăn chè.





Những người này không có thiệp mời! Nhưng tình yêu chè chứa chan trong mắt họ nên đã được đón chào và nhờ vậy mới có chùm ảnh và câu chuyện kể ở đây.



Những… nhà chè tham gia cuộc hội ngộ









Trong lúc yêu cầu giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm dành cho các cơ sở kinh doanh đang làm lúng túng cho chính cơ quan quản lý lẫn hộ kinh doanh nhỏ, trong lúc các cam kết hỗ trợ vẫn chỉ là lời nói suông thì “Ký ức Chè” là một hoạt động rất thiết thực. Các quán chè sẽ không ra biển lớn nhưng cũng cần biết cách đón khách từ khơi xa đến, cũng cần tập quen dần với việc rời không gian nhỏ dành cho học trò để vào các sảnh lớn có đẳng cấp nhiều sao.

Mblog
________________
(*) Trích từ thiệp mời của Văn phòng Cần Thơ, báo Sài Gòn Tiếp Thị
Mời đọc thêm:
Con đường đá đậu trong blog này.
Ảnh: Cẩm Nhung




Thứ Năm, 8 tháng 11, 2007

Caride

Chúng tôi có cùng một tín ngưỡng.

Caride, tức là cari dê.

Lãnh lương xong, lập tức chạy đi rủ thằng bạn chí cốt, lâu rồi không có đi ăn chung. Nghe đến "Cari dê" nó giật nãy mình, môi run run xúc động muốn phát khóc. Hai thằng chạy thẳng đến Thanh Thúy.

Thanh Thúy là một quán ăn chuyên phục vụ các món ăn dê với 2 món nổi tiếng là cari và lẩu dê, ngoài ra còn có dê hấp gừng, vú dê nướng, ngọc dương hầm thuốc bắc.

Mặc dù dê là món chính, nhưng Thanh Thúy vẫn phục vụ các loại thịt khác như: bò, ếch, cá...

Chúng tôi ăn cari dê ở đây đã ba năm rồi, đến bây giờ vẫn chưa chán.

Một dĩa cari dê vào thời điểm này có giá 60.000 một phần, thích hợp cho 2 đến 3 người ăn. Bạn có thể chọn thịt dê, thịt không da, mỡ, sườn dê. Thường thì quán sẽ để đủ thứ. Cari dê còn có khoai môn (còn gọi là khoai cau) hoặc khoai tây, tôi thường chọn khoai tây, thằng bạn tôi thích khoai môn. Nên chúng tôi quy ước, thằng nào trả tiền được quyền chọn loại khoai mình thích. Hôm nay tôi trả, nên trong hình, thứ bạn thấy là khoai tây.

Thức ăn được đem ra rất nhanh, thường thì chỉ khoảng 10 phút là bạn có thể ăn.

Mẹo:

- Vì nước hơi ít và rút rất nhanh, nên để tránh tranh chấp, khi còn khoảng một nửa nước cari bạn không xài lò nữa để tránh nước rút (quán không cho xin thêm nước).

- Bạn nên múc nước cari vào chén để chấm bánh mì chứ đừng chấm trực tiếp lên dĩa vì như vậy sẽ làm dĩa cari bớt hấp dẫn và gây cảm giác í ẹ cho đối phương (người ăn chung với bạn).

- Cari hơi cay so với những nơi khác nên bạn hãy dặn chủ quán làm vừa khẩu vị của mình.

- Cari dê hợp với bia và nước ngọt, đừng uống rượu.

Bạn tôi

Chờ cô ấy đến

đây rùi, sexy wá. hix hix.

Caride nhìn từ trên cao

One step closer

Caride = khoai tây (hoặc môn) + rau thơm + dê + hành tây + đậu phộng


Thịt mềm và ngọt, không cảm thấy mùi hôi của dê.



Một điều đáng tiếc xảy ra, chiếc điện thoại của tôi hết pin nên không thể chụp bức ảnh cuối cùng khi chúng tôi kết thúc cuộc chiến.

Đó là một bãi chiến trường đầy rẫy xác bánh mì nằm khắp nơi trên bàn ăn. dĩa cari hoàn toàn bốc hơi.

Chúng tôi gọi thêm 2 ly cam vắt, hút một hơi đến khi nghe rột rột.

Cười toe toét ra về.



---------------

Địa chỉ Thanh Thúy: Nhà số 91/41 cuối đường 30/4, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

Mai Hải Đăng