Đây là bộ từ điển địa phương đầu tiên về thành phố có quá trình hình thành và phát triển hơn 300 năm; thành phố có số cư dân đông nhất nước và là một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế... quan trọng của cả nước, đứng thứ hai sau thủ đô Hà Nội. Công trình được hoàn thành sau gần 5 năm biên soạn và chỉnh lý của nhóm tác giả gồm 2 vị chủ biên, 18 cộng tác viên và được khảo duyệt, tiếp sức bởi một hội đồng gồm các học giả, nhà nghiên cứu có uy tín.
Chúng tôi xin bày tỏ sự ngưỡng mộ, khâm phục đối với công trình sưu tầm, biên soạn rất có giá trị này. Cũng với tình cảm đó, chúng tôi xin mạo muội nêu ra vài điểm, đề nghị các nhà biên soạn Từ điển thành phố Sài Gòn-Hồ Chí Minh (dưới đây sẽ gọi tắt là Từ điển) xem xét, hiệu chỉnh, bổ sung cho lần xuất bản sau.
Chúng tôi xin bày tỏ sự ngưỡng mộ, khâm phục đối với công trình sưu tầm, biên soạn rất có giá trị này. Cũng với tình cảm đó, chúng tôi xin mạo muội nêu ra vài điểm, đề nghị các nhà biên soạn Từ điển thành phố Sài Gòn-Hồ Chí Minh (dưới đây sẽ gọi tắt là Từ điển) xem xét, hiệu chỉnh, bổ sung cho lần xuất bản sau.
Phần "Báo chí - xuất bản":
Trang 850 có chép rằng Phan Yên báo là nguyệt san ra đời tháng 12-1868 và là tờ báo thứ hai viết bằng chữ quốc ngữ ở Gia Định. Nhưng tại trang 1028, mục “Tờ báo đầu tiên bị cấm ở Saigon” lại cho là báo này ra số đầu tiên vào tháng 12-1898, sau tờ Thông Loại Khóa Trình của Trương Vĩnh Ký (ra số đầu tháng 5-1888). Tuy nhiên, ở mục này cũng cho rằng Phan Yên báo là tờ báo quốc ngữ thứ hai.
Sự sai biệt con số năm xuất bản tờ Phan Yên báo (1868 và 1898) nêu trên chắc chắn không phải là một lỗi do sắp chữ vì theo đó còn một số chi tiết mâu thuẫn cần chú ý sau:
Nếu Phan Yên báo là tờ báo quốc ngữ thứ hai ở Gia Định (cũng là của nước ta) thì nó phải ra đời năm 1868, chỉ sau tờ Gia Định báo (1865). Và như vậy, Phan Yên báo chính là tờ báo tư nhân đầu tiên ở Việt Nam (do Diệp Văn Cương chủ trương) xuất bản trước tờ Thông Loại Khóa Trình 20 năm.
Trái lại, nếu Phan Yên báo ra đời năm 1898 - sau tờ Thông Loại Khóa Trình 10 năm - thì nó không thể là tờ báo quốc ngữ thứ hai xuất bản tại Gia Định được. Đơn giản là vì Thông Loại Khóa Trình cũng là báo dùng quốc ngữ, được in và phát hành tại Gia Định.
Được biết, hiện trong nước không còn bản lưu nào của tờ Phan Yên báo, nhưng các công trình nghiên cứu (1) về lịch sử báo chí nước ta trước đây đều ghi nhận báo này ra số đầu tiên vào tháng 12-1868 - là tờ báo quốc ngữ thứ hai của Việt Nam.
Từ điển lại ghi rằng: Phan Yên là tên cổ của GĐ (Gia Định - người viết).
Địa danh Gia Định đã xuất hiện hơn 3 thế kỷ, là tên gọi những đơn vị hành chính có khi là phủ, lúc là tỉnh, hoặc gọi chung xứ Nam bộ; phạm vi địa bàn mỗi lúc to nhỏ rất khác nhau. Gia Định cũng từng được gọi bằng những cái tên khác nhau, nhưng chưa bao giờ mang tên Phan Yên như quyển Từ điển này ghi.
Không biết khi ông Diệp Văn Cương đặt tên tờ báo có ý "nói lái" Phan Yên từ Phiên An hay không, nhưng rõ ràng không thể chính thức gọi Phan Yên là tên cổ của Gia Định được (2).
Về tên Phiên An, có xuất xứ như sau: Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi xưng hiệu Gia Long; ban chiếu hạ cấp Gia Định kinh xuống làm Gia Định trấn thành. Cải tên phủ Gia Định làm trấn Gia Định và đặt "trấn quan" để cai quản cả ngũ trấn là: trấn Phiên An, trấn Biên Hòa, trấn Định Tường, trấn Vĩnh Long, trấn Hà Tiên.
Năm 1832, sau khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất, Minh Mạng liền cải ngũ trấn thành lục tỉnh gồm: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Đổi thành Gia Định - nơi trú đóng của Tổng trấn - làm tỉnh thành Phiên An.
Năm 1936, cải tỉnh Phiên An ra tỉnh Gia Định. Tỉnh thành Phiên An cũng đổi ra tỉnh thành Gia Định.
Mục từ: Lành Mạnh (trang 843) - Tập san Lành Mạnh (xuất bản vào ngày Một mỗi tháng) ra mắt số đầu tiên ngày 01-10-1956, không phải vào năm 1958 như Từ điển viết. Đến ngày 01-8-1963 ra số 83. Trong suốt thời gian ấy (83 tháng), tòa soạn và trị sự đặt tại: 32 đường Lê Lợi, Huế và báo in tại nhà in Sao Mai - 76 đường Nguyễn Huệ, Huế. Chủ nhiệm tập san này là bác sĩ Lê Khắc Quyến, lúc bấy giờ là Giám đốc Bệnh viện Huế. Vì vậy Lành Mạnh là tờ báo được xuất bản tại Huế chứ không phải tại Saigon; thiết nghĩ không nên đưa vào Từ điển này.
Mục từ: Chính Luận (trang 827) - Từ điển chép ngày đình bản báo này là 30-3-1974. Chúng tôi không rõ báo Chính Luận ra số cuối cùng vào ngày nào, là số mấy; nhưng chắc chắn chi tiết nói trên không chính xác. Hiện nay chúng tôi còn giữ một bản số báo Chính Luận ra ngày thứ Sáu, 09-8-1974.
Phần "Những điểm đáng nhớ",
mục Bức ảnh được trao giải quốc tế Pulitzer (trang 1029) nói về bức ảnh được trao giải ảnh báo chí Pulitzer năm 1969, được chụp trên đường phố Saigon trong bối cảnh cuộc Tổng công kích và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968); trong ảnh là Tổng giám đốc Cảnh sát Saigon - Nguyễn Ngọc Loan - đang chỉa súng ngắn bắn vào đầu một người bị trói chặt hai tay ra sau. Từ điển nói rằng tác giả bức ảnh đó là một phóng viên của báo Sunday Times.
Xin đính chính như sau: Tác giả bức ảnh đó là EDDIE ADAMS. Lúc chụp bức ảnh nói trên, anh ta đang làm phóng viên ảnh chính thức cho hãng Associated Press (AP) theo một hợp đồng từ 1962 đến 1972. Sau đó Adams trở thành một phóng viên tự do (freelance) với một hợp đồng cung cấp ảnh cho tạp chí Time.
Phần "Nhân vật":
Có nhiều điểm cần sửa lại (không kể lỗi mo-rát) hoặc viết lại cho rõ ràng, chính xác. Ở đây chỉ nêu vài trường hợp:
1/ Mục từ: Lê Liễu Huê (trang 168). Từ trước đến nay, tỉnh Quảng Trị không hề có huyện Thạch Hãn. Chỉ có làng Thạch Hãn (thuộc thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị) và dòng sông Thạch Hãn.
2/ Mục từ: Lê Ngọc Trụ (trang 169). Cây Gõ là tên gọi một vùng thuộc quận 6 (phường 6 và 9), khu vực giáp quận 11; không liên quan đến quận 5 như trong Từ điển ghi.
3/ Mục từ: Mai Văn Bộ (trang 180). Huyện Thốt Nốt hiện nay thuộc tỉnh Cần Thơ, không thuộc tỉnh An Giang như trong Từ điển viết.
4/ Mục từ: Nguyễn Tường Tam (trang 213). Từ điển viết: “...làm Trưởng đoàn đàm phán với Pháp tại Hội nghị Đà Lạt và Fontainbleau. Sau đó, bỏ công tác chạy sang Trung Quốc”.
Xin nói rõ như sau: Tại Hội nghị trù bị Việt Pháp ở Dalat ngày 19/4/1946, phái đoàn Việt Nam do Nguyễn Tường Tam làm trưởng đoàn, Võ Nguyên Giáp làm phó đoàn. Về Hội nghị Fontainbleau: theo danh sách ngày 28-5-1946, Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng đoàn, nhưng ngày 30/5/1946, có quyết định thay đổi và Phạm Văn Đồng đã thực hiện nhiệm vụ trưởng phái đoàn Việt Nam tại hội nghị nói trên.
Vậy không thể viết như đoạn trích dẫn nêu trên; tuy ngắn, gọn, nhưng làm người đọc hiểu sai sự thật lịch sử.
5/ Hai mục từ: Ngô Tùng Châu (trang 183) và Võ Tánh (trang 267).
Năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh chiếm thành Quy Nhơn, đổi thành trấn Bình Định. Đến năm Tân Dậu (1801), bị quân Tây Sơn vây ngặt lâu ngày, quân lương đã cạn kiệt, không đủ sức chống giữ, quan Trấn thủ Võ Tánh và Hiệp trấn Ngô Tùng Châu cùng tuẫn tiết.
Về Ngô Tùng Châu, Từ điển ghi: “Năm 1799, làm Hiệp trấn Bình Thạnh cùng với trấn thủ Võ Tánh giữ thành”. Cần sửa lại là ...Hiệp trấn Bình Định. Có ý kiến cho rằng sách viết là Bình Thành, nhưng in sai. Dù viết như vậy cũng không chuẩn, vì hai ông Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đóng binh trong thành Bình Định nhưng trấn thủ lãnh thổ Trấn Bình Định chứ không chỉ riêng khu vực thành Bình Định.
Về Võ Tánh, Từ điển lại viết: “...trấn thủ thành Qui Nhơn...”, cần sửa lại là thành Bình Định.
6/ Mục từ: Võ Trường Toản (trang 269). Từ điển viết “Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Phan Thanh Giản cùng Nguyễn Thông và nhiều môn sinh yêu nước đứng ra lo việc cải táng mộ người thầy học đáng kính về làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre với ý tưởng không để mộ thầy nằm trong vùng giặc chiếm lúc bấy giờ”.
Đọc đoạn văn liền một câu như trên, nhiều người sẽ lầm tưởng Phan Thanh Giản (1796-1867) và Nguyễn Thông (1827-1884) cũng là học trò của Võ Trường Toản (mất năm 1792). Viết "ngắn gọn" kiểu này quả là rất nguy hiểm.
Theo Lời giới thiệu thì Từ điển thành phố Sài Gòn-Hồ Chí Minh là loại từ điển phổ thông, lấy đối tượng phổ biến là lớp trẻ, học sinh sinh viên. Chính vì vậy, thiết nghĩ cần có cách viết - dù ngắn gọn - nhưng phải khúc chiết, đủ nghĩa, tránh sự hiểu nhầm cho người tra cứu thuộc tầng lớp phổ thông …
Phạm Đình Quát (tháng 6/2001)
Trang 850 có chép rằng Phan Yên báo là nguyệt san ra đời tháng 12-1868 và là tờ báo thứ hai viết bằng chữ quốc ngữ ở Gia Định. Nhưng tại trang 1028, mục “Tờ báo đầu tiên bị cấm ở Saigon” lại cho là báo này ra số đầu tiên vào tháng 12-1898, sau tờ Thông Loại Khóa Trình của Trương Vĩnh Ký (ra số đầu tháng 5-1888). Tuy nhiên, ở mục này cũng cho rằng Phan Yên báo là tờ báo quốc ngữ thứ hai.
Sự sai biệt con số năm xuất bản tờ Phan Yên báo (1868 và 1898) nêu trên chắc chắn không phải là một lỗi do sắp chữ vì theo đó còn một số chi tiết mâu thuẫn cần chú ý sau:
Nếu Phan Yên báo là tờ báo quốc ngữ thứ hai ở Gia Định (cũng là của nước ta) thì nó phải ra đời năm 1868, chỉ sau tờ Gia Định báo (1865). Và như vậy, Phan Yên báo chính là tờ báo tư nhân đầu tiên ở Việt Nam (do Diệp Văn Cương chủ trương) xuất bản trước tờ Thông Loại Khóa Trình 20 năm.
Trái lại, nếu Phan Yên báo ra đời năm 1898 - sau tờ Thông Loại Khóa Trình 10 năm - thì nó không thể là tờ báo quốc ngữ thứ hai xuất bản tại Gia Định được. Đơn giản là vì Thông Loại Khóa Trình cũng là báo dùng quốc ngữ, được in và phát hành tại Gia Định.
Được biết, hiện trong nước không còn bản lưu nào của tờ Phan Yên báo, nhưng các công trình nghiên cứu (1) về lịch sử báo chí nước ta trước đây đều ghi nhận báo này ra số đầu tiên vào tháng 12-1868 - là tờ báo quốc ngữ thứ hai của Việt Nam.
Từ điển lại ghi rằng: Phan Yên là tên cổ của GĐ (Gia Định - người viết).
Địa danh Gia Định đã xuất hiện hơn 3 thế kỷ, là tên gọi những đơn vị hành chính có khi là phủ, lúc là tỉnh, hoặc gọi chung xứ Nam bộ; phạm vi địa bàn mỗi lúc to nhỏ rất khác nhau. Gia Định cũng từng được gọi bằng những cái tên khác nhau, nhưng chưa bao giờ mang tên Phan Yên như quyển Từ điển này ghi.
Không biết khi ông Diệp Văn Cương đặt tên tờ báo có ý "nói lái" Phan Yên từ Phiên An hay không, nhưng rõ ràng không thể chính thức gọi Phan Yên là tên cổ của Gia Định được (2).
Về tên Phiên An, có xuất xứ như sau: Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi xưng hiệu Gia Long; ban chiếu hạ cấp Gia Định kinh xuống làm Gia Định trấn thành. Cải tên phủ Gia Định làm trấn Gia Định và đặt "trấn quan" để cai quản cả ngũ trấn là: trấn Phiên An, trấn Biên Hòa, trấn Định Tường, trấn Vĩnh Long, trấn Hà Tiên.
Năm 1832, sau khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất, Minh Mạng liền cải ngũ trấn thành lục tỉnh gồm: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Đổi thành Gia Định - nơi trú đóng của Tổng trấn - làm tỉnh thành Phiên An.
Năm 1936, cải tỉnh Phiên An ra tỉnh Gia Định. Tỉnh thành Phiên An cũng đổi ra tỉnh thành Gia Định.
Mục từ: Lành Mạnh (trang 843) - Tập san Lành Mạnh (xuất bản vào ngày Một mỗi tháng) ra mắt số đầu tiên ngày 01-10-1956, không phải vào năm 1958 như Từ điển viết. Đến ngày 01-8-1963 ra số 83. Trong suốt thời gian ấy (83 tháng), tòa soạn và trị sự đặt tại: 32 đường Lê Lợi, Huế và báo in tại nhà in Sao Mai - 76 đường Nguyễn Huệ, Huế. Chủ nhiệm tập san này là bác sĩ Lê Khắc Quyến, lúc bấy giờ là Giám đốc Bệnh viện Huế. Vì vậy Lành Mạnh là tờ báo được xuất bản tại Huế chứ không phải tại Saigon; thiết nghĩ không nên đưa vào Từ điển này.
Mục từ: Chính Luận (trang 827) - Từ điển chép ngày đình bản báo này là 30-3-1974. Chúng tôi không rõ báo Chính Luận ra số cuối cùng vào ngày nào, là số mấy; nhưng chắc chắn chi tiết nói trên không chính xác. Hiện nay chúng tôi còn giữ một bản số báo Chính Luận ra ngày thứ Sáu, 09-8-1974.
Phần "Những điểm đáng nhớ",
mục Bức ảnh được trao giải quốc tế Pulitzer (trang 1029) nói về bức ảnh được trao giải ảnh báo chí Pulitzer năm 1969, được chụp trên đường phố Saigon trong bối cảnh cuộc Tổng công kích và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968); trong ảnh là Tổng giám đốc Cảnh sát Saigon - Nguyễn Ngọc Loan - đang chỉa súng ngắn bắn vào đầu một người bị trói chặt hai tay ra sau. Từ điển nói rằng tác giả bức ảnh đó là một phóng viên của báo Sunday Times.
Xin đính chính như sau: Tác giả bức ảnh đó là EDDIE ADAMS. Lúc chụp bức ảnh nói trên, anh ta đang làm phóng viên ảnh chính thức cho hãng Associated Press (AP) theo một hợp đồng từ 1962 đến 1972. Sau đó Adams trở thành một phóng viên tự do (freelance) với một hợp đồng cung cấp ảnh cho tạp chí Time.
Phần "Nhân vật":
Có nhiều điểm cần sửa lại (không kể lỗi mo-rát) hoặc viết lại cho rõ ràng, chính xác. Ở đây chỉ nêu vài trường hợp:
1/ Mục từ: Lê Liễu Huê (trang 168). Từ trước đến nay, tỉnh Quảng Trị không hề có huyện Thạch Hãn. Chỉ có làng Thạch Hãn (thuộc thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị) và dòng sông Thạch Hãn.
2/ Mục từ: Lê Ngọc Trụ (trang 169). Cây Gõ là tên gọi một vùng thuộc quận 6 (phường 6 và 9), khu vực giáp quận 11; không liên quan đến quận 5 như trong Từ điển ghi.
3/ Mục từ: Mai Văn Bộ (trang 180). Huyện Thốt Nốt hiện nay thuộc tỉnh Cần Thơ, không thuộc tỉnh An Giang như trong Từ điển viết.
4/ Mục từ: Nguyễn Tường Tam (trang 213). Từ điển viết: “...làm Trưởng đoàn đàm phán với Pháp tại Hội nghị Đà Lạt và Fontainbleau. Sau đó, bỏ công tác chạy sang Trung Quốc”.
Xin nói rõ như sau: Tại Hội nghị trù bị Việt Pháp ở Dalat ngày 19/4/1946, phái đoàn Việt Nam do Nguyễn Tường Tam làm trưởng đoàn, Võ Nguyên Giáp làm phó đoàn. Về Hội nghị Fontainbleau: theo danh sách ngày 28-5-1946, Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng đoàn, nhưng ngày 30/5/1946, có quyết định thay đổi và Phạm Văn Đồng đã thực hiện nhiệm vụ trưởng phái đoàn Việt Nam tại hội nghị nói trên.
Vậy không thể viết như đoạn trích dẫn nêu trên; tuy ngắn, gọn, nhưng làm người đọc hiểu sai sự thật lịch sử.
5/ Hai mục từ: Ngô Tùng Châu (trang 183) và Võ Tánh (trang 267).
Năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh chiếm thành Quy Nhơn, đổi thành trấn Bình Định. Đến năm Tân Dậu (1801), bị quân Tây Sơn vây ngặt lâu ngày, quân lương đã cạn kiệt, không đủ sức chống giữ, quan Trấn thủ Võ Tánh và Hiệp trấn Ngô Tùng Châu cùng tuẫn tiết.
Về Ngô Tùng Châu, Từ điển ghi: “Năm 1799, làm Hiệp trấn Bình Thạnh cùng với trấn thủ Võ Tánh giữ thành”. Cần sửa lại là ...Hiệp trấn Bình Định. Có ý kiến cho rằng sách viết là Bình Thành, nhưng in sai. Dù viết như vậy cũng không chuẩn, vì hai ông Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đóng binh trong thành Bình Định nhưng trấn thủ lãnh thổ Trấn Bình Định chứ không chỉ riêng khu vực thành Bình Định.
Về Võ Tánh, Từ điển lại viết: “...trấn thủ thành Qui Nhơn...”, cần sửa lại là thành Bình Định.
6/ Mục từ: Võ Trường Toản (trang 269). Từ điển viết “Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Phan Thanh Giản cùng Nguyễn Thông và nhiều môn sinh yêu nước đứng ra lo việc cải táng mộ người thầy học đáng kính về làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre với ý tưởng không để mộ thầy nằm trong vùng giặc chiếm lúc bấy giờ”.
Đọc đoạn văn liền một câu như trên, nhiều người sẽ lầm tưởng Phan Thanh Giản (1796-1867) và Nguyễn Thông (1827-1884) cũng là học trò của Võ Trường Toản (mất năm 1792). Viết "ngắn gọn" kiểu này quả là rất nguy hiểm.
Theo Lời giới thiệu thì Từ điển thành phố Sài Gòn-Hồ Chí Minh là loại từ điển phổ thông, lấy đối tượng phổ biến là lớp trẻ, học sinh sinh viên. Chính vì vậy, thiết nghĩ cần có cách viết - dù ngắn gọn - nhưng phải khúc chiết, đủ nghĩa, tránh sự hiểu nhầm cho người tra cứu thuộc tầng lớp phổ thông …
Phạm Đình Quát (tháng 6/2001)
_____
(*) Thạch Phương - Lê Trung Hoa (chủ biên). Nhà xuất bản Trẻ, thành phố HCM - 3/2001.
(1) Huỳnh văn Tòng (Lịch sử Báo chí Việt Nam), Nguyễn Ngu Í (Bách Khoa), Nguyễn Ang Ca (Phổ Thông bán nguyệt san).....
(2) Xin tham khảo thêm: http://www.hochiminhcity.gov.vn/left/gioi_thieu/gioi_thieu_chung/ban_chua_biet/300_nam_dia_danh_gia_dinh?left_menu=1..c
(*) Thạch Phương - Lê Trung Hoa (chủ biên). Nhà xuất bản Trẻ, thành phố HCM - 3/2001.
(1) Huỳnh văn Tòng (Lịch sử Báo chí Việt Nam), Nguyễn Ngu Í (Bách Khoa), Nguyễn Ang Ca (Phổ Thông bán nguyệt san).....
(2) Xin tham khảo thêm: http://www.hochiminhcity.gov.vn/left/gioi_thieu/gioi_thieu_chung/ban_chua_biet/300_nam_dia_danh_gia_dinh?left_menu=1..c
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét